Nhận định, soi kèo Nữ Barcelona vs Nữ Rosengard, 3h00 ngày 22/12

Nhận định 2025-04-29 22:19:24 3
ậnđịnhsoikèoNữBarcelonavsNữRosengardhngàkohey nishi   Hoàng Ngọc - 21/12/2023 08:50  Nhận định bóng đá giải khác
本文地址:http://user.tour-time.com/html/20e594419.html
版权声明

本文仅代表作者观点,不代表本站立场。
本文系作者授权发表,未经许可,不得转载。

全站热门

Nhận định, soi kèo Napoli vs Torino, 1h45 ngày 28/4: Nhọc nhằn giành điểm

{keywords}Google và Temasek công bố báo cáo nền kinh tế Đông Nam Á.

Kể từ khi đại dịch Covid-19 bắt đầu, khu vực Đông Nam Á đã có thêm 60 triệu người tiêu dùng tham gia vào nền kinh tế Internet. Trong đó, 20 triệu người tham gia chỉ trong nửa đầu năm.

Đây là tiền đề cho các kỳ lân công nghệ trong khu vực, chẳng hạn như các siêu ứng dụng Grab, GoTo hay Sea Group. Ba công ty này tham gia vào các lĩnh vực khác nhau của TMĐT và Fintech, thúc đẩy giá trị của nền kinh tế Internet của  ASEAN trong thập kỷ tới, báo Google đánh giá.

Bối cảnh dịch bệnh, hạn chế di chuyển, tương tác xã hội nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh đã khiến nhiều người phụ thuộc vào các dịch vụ kỹ thuật số. Tổng giá trị hàng hóa của nền kinh tế Internet của khu vực Đông Nam Á đã đạt tăng trưởng kép 49%, từ 117 tỷ USD vào năm 2020 lên đến 174 tỷ USD trong năm nay.

Dự kiến, tốc độ tăng trưởng kép sẽ đạt 20%, lên đến 363 tỷ USD vào năm 2025. Trong đó, TMĐT là động lực chính và chiếm tỷ trọng lớn trong việc gia tăng đóng góp vào giá trị của nền kinh tế số của khu vực.

Theo đó, TMĐT sẽ tăng lên con số 120 tỷ USD trong tổng giá trị hàng hóa được tạo ra trong năm nay và dự đoán ​​sẽ đạt 234 tỷ USD vào năm 2025. Đáng lưu ý là thị trường giao nhận thực phẩm đã tăng trưởng mạnh mẽ. Đây là dịch vụ có mức thâm nhập sâu nhất, với 71% tổng số người dùng Internet đặt bữa ăn trực tuyến ít nhất một lần.

Sự gia tăng của người dùng Internet cũng thay đổi dự báo về quy mô thương mại Internet trong vòng 4 năm tới. Hệ quả là GMV của Đông Nam Á ước tính sẽ đạt 174 tỷ USD vào cuối năm 2021, có khả năng sẽ vượt qua 360 tỷ USD vào năm 2025 - cao hơn mức dự báo trước đó (300 tỷ USD).

Các dịch vụ tài chính số tăng trưởng mạnh mẽ, với thanh toán kỹ thuật số và ví điện tử nhanh chóng trở thành xu hướng chủ đạo - gắn liền với sự phát triển của TMĐT, nơi các giao dịch mua được thanh toán trực tuyến thay vì sử dụng tiền mặt.

Theo đó, thanh toán số tăng 9% theo tổng giá trị giao dịch, từ 646 tỷ USD năm 2020 lên 707 tỷ USD năm nay và dự kiến ​​đạt 1,17 nghìn tỷ USD vào năm 2025. Sự tăng trưởng mạnh mẽ thúc đẩy làn sóng các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực này.

Hoàng Nam (Theo Nikkei Asia)

Xây dựng Bộ chỉ tiêu đo lường kinh tế số Việt Nam để ra chính sách phát triển

Xây dựng Bộ chỉ tiêu đo lường kinh tế số Việt Nam để ra chính sách phát triển

Bộ chỉ tiêu thống kê kinh tế số phản ánh đầy đủ từ hạ tầng số, mức độ phổ cập của phương tiện số, dịch vụ trực tuyến đến nguồn nhân lực. Đây sẽ là dữ liệu quan trọng trong việc đưa ra các quyết sách cụ thể.

">

Kinh tế số Đông Nam Á có thể đạt 1.000 tỷ USD vào năm 2030


"Không." Lục Nhiên quả quyết từ chối.

Đinh Duy không vui, lên giọng: "Mày không cần làm thí nghiệm nữa, cũng có bận cái gì đâu, tại sao không giúp tao?"

Lục Nhiên nhìn gã như thằng bại não: "Bởi vì tao còn phải làm thêm."

Không đi làm kiếm tiền thì mài đất ăn à.

Bà Thẩm có chịu cho cậu 1 tỷ đâu.

Đinh Duy nghẹn họng, sau đó phẩy tay: "Việc làm thêm mày kiếm lúc nào chẳng được, việc này của tao quan trọng hơn."

Lục Nhiên vô cảm nhìn gã chằm chằm.

"Đinh Duy, tại sao mày luôn cảm thấy việc của mày quan trọng hơn việc của tao? Tại sao tao luôn phải bỏ dở việc của mình, điều chỉnh lịch của mình để chiều theo mày?"

Đinh Duy bị hỏi cho á khẩu.

Trong lòng gã lại vẫn nghĩ, việc của tao đúng là quan trọng hơn mà. Ông đây được tham gia tiệc mừng thọ của cha nam thần đó, phải cần mấy ngày để chuẩn bị quà chứ.

Nhưng gã ngắc ngứ một hồi vẫn không nói được.

Thật ra lúc Thẩm Tinh Nhiễm mời gã còn cho gã thêm mấy thiệp mời, để gã rủ bạn bè bạn học tới chơi cùng cho vui.

Nhưng Đinh Duy không định mời Lục Nhiên.

"Đéo giúp thì thôi! Lại còn ra vẻ."

Trương Lân cũng chuẩn bị để tham dự tiệc mừng Thẩm Hồng Nguyên 50 tuổi.

Tiệc mừng thọ tổ chức ở biệt thự nhà họ Thẩm, cả ba người nhà họ Trương đều có mặt.

Nhà họ Trương và nhà họ Thẩm ngang nhau về cấp bậc, thường cạnh tranh về phương diện làm ăn, nhưng dù sao cũng phải cho nhau sĩ diện.

Trương Lân không dẫn Lâm Y tới.

Thật ra gã cũng chẳng thích Lâm Y, gã thích kiểu ngoan hiền như Thẩm Tinh Nhiễm hơn. Nhưng nhà họ Trương đang nhắm một kĩ thuật mà nhà họ Lâm sở hữu, Trương Lân chỉ đành bấm bụng.

"Hiếm lắm mới có dịp ra ngoài, con đi quanh dạo chơi giải sầu đi." Trương phu nhân lo âu nhìn Trương Lân.

Con trai của bà không biết dạo này bị làm sao, luôn ỉu xìu ủ rũ. Mấy hôm nay thái độ tự dưng thay đổi, bắt đầu bừng bừng hứng thú chuẩn bị tham gia tiệc nhà họ Thẩm.

Trạng thái của Trương Lân hôm nay đúng là rất tốt.

Bởi vì gã muốn ở nhà họ Thẩm, ở trong bữa tiệc này, lật lại một ván cho mình, rửa sạch nỗi nhục hôm đó.

Chỉ là một thằng con riêng thôi, gã còn không chơi lại?

Trương Lân tràn trề tự tin, đung đưa chén rượu đi tìm Thẩm Tinh Nhiễm.

Lúc đi ngang qua bàn thức ăn, một đứa nhỏ cầm đĩa chạy qua người gã. Trương Lân theo bản năng nhìn xuống.

Trong cái đĩa trắng thằng bé cầm là một món tráng miệng có hình hamster.

">

Truyện Vật Hi Sinh Nhà Quyền Quý Bắt Đầu Nổi Điên

Siêu máy tính dự đoán Venezia vs AC Milan, 17h30 ngày 27/4

Bảng 1: Trạng thái dịch Covid-19 ngày 11/3/2020 và 30/4/2021

{keywords}

Việc phòng chống dịch Covid-19 là chưa có tiền lệ với nhân loại nên thực tế hơn 1 năm qua, các nước vừa làm, vừa học, rút kinh nghiệm. Tuy nhiên, việc quy mô những người nhiễm phải được điều trị trong các bệnh viện - họ là nguồn lây nhiễm chủ yếu tạo ra lây nhiễm cộng đồng và dịch ở các nước - không ngừng tăng lên, từ 75.727 lên 18.937.963 người, chưa có dấu hiệu trở về mức khi công bố có dịch (11/3/2020), chứng tỏ việc phòng, chống Covid-19 của nhân loại về tổng thể là chưa đem lại kết quả toàn cầu mong muốn, Hình 1.

Qua Hình 1 ta thấy, số người đang được điều trị trong các bệnh viện tăng từ 10 người, khi WHO công bố đại dịch Covid-19 ngày 11/3/2020, lên đạt đỉnh 2.461 người/1 triệu dân vào ngày 24/1/2021, sau đó giảm dần. Tức là xét góc độ toàn thế giới, loài người vừa trải qua làn sóng thứ 1 của đại dịch Covid-19. Nếu như nhiều nước châu Âu, châu Mỹ, châu Á từ tháng 3/2021 không nới lỏng các quy định phòng chống dịch thì số người đang được điều trị trên 1 triệu dân đã tiếp tục giảm (Hình 1), song các biện pháp nới lỏng thực tế đã làm dịch bùng phát trở lại từ 11/3/2021, đúng 1 năm sau khi WHO xác nhận có đại dịch Covid-19 toàn cầu. Đến ngày 30/4/2021 có 2.455 người đang được điều trị trên 1 triệu dân, tương ứng đỉnh dịch của làn sóng thứ 1 (2.461 người), Hình 1.

{keywords}

Hình 1: Diễn biến dịch Covid-19 toàn cầu: Số người đang điều trị trong các bệnh viện trên 1 triệu dân (nguồn: Worldometer)

Sau 1 năm 50 ngày, tình hình dịch Covid-19 ở các châu lục rất khác nhau, Bảng 2.

Qua thống kê ở Bảng 2 ta thấy, với tiêu chí số người đang điều trị/1 triệu dân và số người chết/1 triệu dân thì tình hình dịch hiện nay ở châu Mỹ và châu Âu là nặng nhất trên thế giới, tiếp theo là châu Á và châu Phi. Đáng lưu ý là GDP/người của châu Mỹ và châu Âu cao hơn nhiều lần châu Á và châu Phi, song cường độ lây nhiễm (số người đang điều trị/1 triệu dân) của châu Mỹ và châu Âu cũng gấp nhiều lần châu Á và châu Phi.

Trong khi châu Mỹ chỉ chiếm 13,1% dân số thế giới, thì lại chiếm 48,78% tổng số người nhiễm đang phải điều trị và 47,3% tổng số người chết, châu Âu chiếm 10,8% dân số thế giới, song có đến 26,3% số người đang điều trị toàn cầu và 32,56% tổng số người chết. Như vậy, châu Âu và châu Mỹ, 2 lục địa giầu nhất thế giới (Bảng 2) cộng lại chiếm 23,9% dân số thế giới song đang có 75% tổng số người nhiễm đang phải được điều trị và gần 80% tổng số người chết. Châu Á chiếm hơn 58% dân số thế giới, nhưng chỉ có 23% số người nhiễm đang được điều trị, còn châu Phi chiếm gần 17% dân số thế giới, song chỉ chiếm 1,9% số người đang được điều trị của thế giới.

Đáng lưu ý là mức độ lây nhiễm và tỉ lệ chết và Covid-19 của Việt Nam rất thấp. Trong khi bình quân trên 1 triệu dân ngày 26/4/2021 Việt Nam chỉ có 3 người nhiễm đang phải điều trị ở các bệnh viện thì ở châu Mỹ là 9.029 người, gấp hơn 2.900 lần ở Việt Nam, ở châu Âu là 5.945 người, gấp hơn 1.900 lần Việt Nam, ở châu Á là hơn 959 người, gấp hơn 300 lần Việt Nam, Bảng 2. 

Bảng 2: Tình hình dịch ở các châu lục và Việt Nam ngày 26/4/2021

{keywords}

Tình hình dịch của một nước hoặc một địa phương được phản ánh bởi nhiều chỉ số: số ca nhiễm mới mỗi ngày, tổng số người nhiễm tích lũy, số người đang điều trị, số người chết, số người khỏi bệnh, trong đó chỉ số số người đang được điều trị trên 1 triệu dân là một chỉ số cơ bản, luôn phải được giám sát đầu tiên, giống như sức khỏe của một người được phản ánh qua rất nhiều chỉ số: nhiệt độ, huyết áp, mạch, các chỉ số xét nghiệm, trong đó nhiệt độ (không quá 37 độ C) là một chỉ số đầu tiên phải được giám sát.

Ngày 11/3/2020, khi WHO ghi nhận lây nhiễm Covid-19 trên toàn thế giới đã trở thành đại dịch, thì có xấp xỉ 10 người lây nhiễm đang được điều trị/1 triêu dân, Bảng 1. Vì vậy, có thể lấy chỉ số: 10 người nhiễm đang được điều trị/1 triệu dân là ngưỡng có dịch để phân biệt: Một đất nước đang có lây nhiễm Covid-19 có phải là có dịch hay không?

Nếu số người đang điều trị/1 triệu dân nhỏ hơn 10 thì có nghĩa nước đó có lây nhiễm Covid-19, song chưa có dịch. Còn nước có số người đang điều trị/1 triệu dân lớn hơn 10 thì có nghĩa là nước đó đang có dịch.Từ Hình 1 và Bảng 1 ta thấy, sau ngày 11/3/2020, dịch Covid-19 trên toàn thế giới đang ngày gia tăng, đạt đỉnh của làn sóng thứ 1 ngày 24/1/2021, sau đó giảm, nhưng sau ngày 11/3/2021 lại tăng và ngày 30/4/2021 có mức lây nhiễm trong cộng đồng dân cư gấp 250 lần ngày 11/3/2020.                  

II. Nhận xét, kinh nghiệm và bài học

II.1. Ba nhận xét:

Trong khi trên toàn thế giới về tổng thể từ 1/2020 đến 4/2021 việc phòng chống dịch Covid-19 không đạt kết quả mong muốn, Bảng 1 và Hình 1, thì có 23 nước và vùng lãnh thổ có số người đang điều trị/1 triệu dân dưới 10 người, tức là không có dịch (ngày 26/4/2021 bình quân toàn cầu có 2.433 người đang điều trị/1 triệu dân). Tổng dân số của 23 nước và vùng lãnh thổ không có dịch là 1.752 triệu người, chiếm 22,7% dân số thế giới, tổng số người đang điều trị là 2.033 người, chiếm 0,01% tổng số người đang điều trị của thế giới. Từ thực tiễn phòng chống dịch Covid-19 của các nước này, rút ra 3 nhận xét:

Nhận xét 1: Yếu tố quy mô dân số và thu nhập đầu người không phải là các yếu tố chủ yếu quyết định một đất nước có phòng chống dịch thành công hay không.

Nhận xét 2: 23 nước và vùng lãnh thổ phòng chống dịch tốt nhất thế giới, sau 1 năm 50 ngày không có dịch, đã thành công mà không cần sự trợ giúp của vắc xin. Cái giá phải trả là phải cách ly người nước ngoài đến nước mình, sau kiểm tra không bị nhiễm Covid-19 thì mới được đi lại bình thường, người dân phải đeo khẩu trang khi ra ngoài, thực hiện hạn chế tiếp xúc tùy theo đặc điểm các vùng trong mỗi nước…

Nhận xét 3: Một đất nước có thể có các đợt lây nhiễm với cường độ của dịch, số người đang điều trị cao gấp nhiều lần ngưỡng có dịch, song nếu nó không cao quá 30 lần thì luôn có cơ hội đưa số người đang điều trị trở lại mức dưới 10 người/1 triệu dân, hết dịch.

II.2. Hai kinh nghiệm và ba bài học

Lây nhiễm Covid-19 thông qua tiếp xúc gần giữa người với người, do đó muốn kiểm soát lây nhiễm và dịch trong 1 nước thì phải kiểm soát sự đi lại của người dân các địa phương và giữa các nước. Nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa phòng chống dịch và đảm bảo cuộc sống bình thường của người dân và phát triển kinh tế, các nước đã thực hiện nhiều giải pháp có thể tham khảo :

Kinh nghiệm 1:Xếp hạng rủi ro lây nhiễm từ các nước xung quanh và nước khác: nhiều nước lập danh sách kiểm soát, hạn chế hoặc cấm nhập cảnh trong một thời gian nhất định đối với công dân và phương tiện vận tải của một số nước.

Hiện nay lây nhiễm Covid-19 ở Lào và Campuchia đã trở thành dịch. Với dân số 7,2 triệu người và 999 người đang điều trị ở Lào, tỉ lệ người điều trị/1 triệu dân ở Lào đã gấp 13 lần ngưỡng có dịch. Campuchia với dân số 16,6 triệu người và 8.390 người đang điều trị, tỉ lệ người đang điều trị/1 triệu dân đã gấp 50 lần ngưỡng có dịch (10 người/1 triệu dân). Còn Ấn Độ với 1.366,4 triệu dân và 3.232.165 người đang điều trị, tỉ lệ người đang điều trị/1 triệu dân đã gấp 236 lần ngưỡng có dịch. Đến nay Việt Nam không có thông điệp gì đặc biệt về kiểm soát nhập cảnh từ 3 nước này, trong khi nhiều nước trên thế giới đã tạm dừng nhập cảnh người từ Ấn Độ.

Kinh nghiệm 2:Công bố các tiêu chí để xếp hạng mức độ lây nhiễm và dịch, đồng thời quy định ứng với các mức độ đó, chính quyền địa phương và người dân phải làm gì để mỗi tỉnh hoặc địa phương trong tỉnh phải chủ động thực hiện các biện pháp phòng chống dịch cần thiết, không chờ chính phủ phải hướng dẫn cần làm gì và các địa phương xung quanh phải chấp nhận các biện pháp của các tỉnh đó liên quan đến người và phương tiện của các tỉnh, địa phương khác.

Ở Việt Nam, Bộ Y tế chưa công bố tiêu chí thế nào là tỉnh có mức độ lây nhiễm cao, trung bình, thấp, 1 tỉnh có dịch và các biện pháp cần thực hiện ở các mức độ lây nhiễm như vậy. Do đó qua các làn sóng lây nhiễm thứ 1, 2, 3 và thứ 4 ở Việt Nam, nhiều tỉnh giáp ranh với các địa phương có dịch (Đà Nẵng, Quảng Nam, Hải Dương, Quảng Ninh) hay các tỉnh giáp với Campuchia và Lào hiện nay, có các quy định hạn chế đi lại, làm việc rất khác nhau đối với công dân và doanh nghiệp ở địa phương mình và từ các tỉnh, địa phương có dịch và không có dịch đến địa phương mình.

Từ nhận xét 3 nêu trên có thể rút ra bài học là: Để có thể đưa trạng thái lây nhiễm Covid-19 của đất nước xuống dưới ngưỡng có dịch, tức là từ đang có dịch thành hết dịch, tuy vẫn còn lây nhiễm, thì ngay từ khi lây nhiễm còn quy mô nhỏ, thậm chí dưới ngưỡng có dịch hoặc khi dự báo có những yếu tố hội tụ để có nguy cơ bùng phát làn sóng lây nhiễm mới và xuất hiện dịch, thì cần triển khai đồng bộ tất cả các giải pháp cần thiết để giảm nhanh nhất tốc độ lây nhiễm ở cộng đồng, làm cho chỉ số số người người đang điều trị/1 triệu dân càng thấp càng tốt và xấu nhất cũng không vượt quá 30 lần ngưỡng có dịch. Khi đó khả năng đưa đất nước, địa phương về trạng thái không có dịch sẽ cao.

Ngày 26/4/2021, trong 220 nước và vùng lãnh thổ có lây nhiễm và dịch Covid-19 có tới 135 nước và vùng lãnh thổ (chiếm 61%) có số người đang điều trị/1 triệu dân lớn hơn 30 lần ngưỡng có dịch ở nước của họ, trong đó có 102 nước và vùng lãnh thổ tỉ lệ này gấp 100 lần đến 2.600 lần ngưỡng có dịch. Tức là các nước và vùng lãnh thổ này sẽ phải áp dụng các biện pháp quyết liệt, hiệu quả hơn nữa (kể cả dùng vắc xin) để có thể kéo mức lây nhiễm xuống dưới ngưỡng có dịch (10 người đang điều trị/1 triệu dân), tức là hết dịch.

Có thể coi đây là Bài học 1: Bài học về khống chế tốc độ lây nhiễm và quy mô người nhiễm:“Phải làm tất cả để làm chậm tốc độ lây nhiễm, không để số người đang điều trị/1 triệu dân vượt ngưỡng có dịch (10 người/1 triệu dân), trong trường hợp xấu nhất không được vượt khả năng của hệ thống cách ly và điều trị của các địa phương và cả nước (kinh nghiệm quốc tế là không quá 30 lần ngưỡng có dịch)”.

Một đặc điểm chung của các nước và vùng lãnh thổ không có dịch hiện nay là khi họ trải qua các làn sóng lây nhiễm mà đỉnh có thể vượt ngưỡng có dịch nhiều lần, thì họ đều áp dụng các biện pháp kiểm soát dịch, giảm lây lan đủ mạnh, đủ lâu để cường độ lây nhiễm - số người đang điều ở bệnh viện trên 1 triệu dân phải giảm xuống dưới ngưỡng có dịch. Khi đó các biện pháp kiểm soát dịch mới được nới lỏng. Vì vậy, nếu một làn sóng lây nhiễm mới xuất hiện thì nó bắt đầu ở mức rất thấp, ở mức dưới ngưỡng có dịch, do đó việc cách ly, chữa trị người bị nhiễm thuận lợi rất nhiều, vì hệ thống y tế không bị quá tải khi làn sóng lây nhiễm mới xuất hiện.

Có thể coi đây là Bài học 2: Bài học về mức độ và thời điểm nới lỏng các biện pháp kiểm soát và dập dịch:“Khi xảy ra làn sóng lây nhiễm hoặc dịch thì việc thực hiện các biện pháp kiểm soát và giảm lây nhiễm cần thiết phải được duy trì trong thời gian đủ dài để số người đang điều trị/1 triệu dân phải giảm liên tục tới mức dưới ngưỡng có dịch của quốc gia hoặc địa phương”.

Trong thực tế việc áp dụng các biện pháp phòng dịch và dập dịch ở mức độ cao đều đòi hỏi chi phí lớn và gây thiệt hại cho người dân và nền kinh tế, do đó thường xuyên có xung đột lợi ích ngắn hạn giữa phòng chống dịch và duy trì hoạt động kinh tế. Tuy nhiên kết quả phòng chống dịch ở Trung Quốc, Việt Nam, Mỹ và Ấn Độ cho phép rút ra bài học rất quan trọng.

Khi dịch Covid-19 nổ ra tại Vũ Hán, 1/2020 - 3/2020, Trung Quốc đã áp dụng các biện pháp hết sức nghiêm ngặt: hạn chế rồi cấm ra khỏi nhà, dừng tất cả hoạt động giáo dục, dịch vụ, thương mại thông thường, vui chơi, sản xuất, các gia đình chỉ được cử 1 người đi chợ vài ngày một lần. Kết quả là sau 2 tháng, từ 15/1 đến 15/3/2020, xét ở quy mô toàn quốc, dịch đã bị dập tắt, từ đó đến nay tỉ số số người được điều trị/1 triệu dân rất thấp so với ngưỡng có dịch. Số người chết đến nay là 4.636 người, bình quân 0,3 người chết/1 triệu dân, vào loại thấp nhất thế giới (Bảng 1-2). Kinh tế Trung Quốc là nền kinh tế lớn duy nhất của thế giới tăng trưởng 2,3% năm 2020.

Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, có nền KHCN vào loại hiện đại nhất thế giới, GDP/người gấp 6,5 lần của Trung Quốc, về tổng thể đã không thực hiện được triệt để việc đeo khẩu trang, giảm hoạt động đông người, truy vết, cách ly người nhiễm nên đã trở thành nơi có dịch lớn nhất thế giới. Ngày 15/3/2020, khi Trung Quốc hết dịch, Mỹ chỉ có 4.033 người đang điều trị. Nhưng đến 30/4/2021 có 6,8 triệu người đang điều trị và 580.337 người chết, gấp hơn 120 lần số người chết vì dịch ở Trung Quốc. Kinh tế Mỹ tăng trưởng âm 3,5% năm 2020.

Việt Nam là nước có dân số gần 100 triệu người, GDP/người khoảng 2.740 USD, chỉ bằng hơn 4% GDP/người của Mỹ (2019). Những biện pháp phòng chống dịch quyết liệt của Việt Nam đã gây thiệt hại cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, nhưng Việt nam dù ở ngay sát Trung Quốc, nơi nổ ra đại dịch Covid-19 đầu tiên, đã không xảy ra dịch Covid-19, mặc dù đã có 3 làn sóng lây nhiễm, song số người điều trị/1 triệu dân chưa bao giờ đạt 7,5 người, luôn thấp hơn ngưỡng có dịch 10 người/1 triệu dân. Kinh tế Việt Nam năm 2020 tăng trưởng 2,91%. Trong 50 nền kinh tế lớn nhất thế giới, năm 2020 chỉ có 4 nền kinh tế tăng trưởng dương: Trung Quốc (2,3%), Đài Loan (2,98%), Ai Cập (3,55%) và Việt Nam (2,91%).

Ấn Độ có 1,3664 tỷ dân, vì vậy ngưỡng có dịch là 13.664 người đang điều trị. Hình 2 thể hiện diễn biến dịch Covid-19 của Ấn Độ.

{keywords}

Hình 2: Diễn biến dịch Covid-19 ở Ấn Độ

Ngày 11/3/2020 khi WHO tuyên bố có đại dịch toàn cầu, thì Ấn Độ chỉ có 58 người đang được điều trị, bằng 0,4% ngưỡng có dịch. Chỉ hơn 1 tháng sau, 19/4/2020, số người đang điều trị là 14.203, vừa vượt ngưỡng có dịch. Đến 18.09.2020, dịch đạt đỉnh lần thứ 1, với 1.014.649 người đang điều trị, gấp 74 lần ngưỡng có dịch. Như vậy quá trình gia tăng lây nhiễm toàn quốc của làn sóng dịch thứ nhất kéo dài 5 tháng, từ 19/4/2020 đến 18/9/2020. Các nỗ lực của Chính phủ Ấn Độ, các Bang và người dân trong 5 tháng này đã chặn được sự gia tăng lây nhiễm, do đó số người đang được điều trị giảm dần, Hình 2.

Các giải pháp phòng chống dịch này cũng đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân và hoạt động kinh tế. Tuy nhiên với hơn 1 triệu người đang được điều trị ngày 18/9/2020, mức độ lây nhiễm còn rất cao, phải tiếp tục các giải pháp kiểm soát dịch và giảm lây nhiễm để kéo mức độ lây nhiễm xuống thấp. Vấn đề đặt ra là quá trình dập dịch này sẽ kéo dài bao lâu, thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng đời sống người dân, ảnh hưởng đến hoạt động chính trị ở Ấn Độ thế nào (bầu cử vào quý 2 năm 2021).

Ngày 16/2/2021, tức là sau 5 tháng từ khi làn sóng dịch thứ nhất đạt đỉnh (18/9/2020) số người đang được điều trị giảm còn 138.254, tức giảm 86% so với đỉnh dịch (1.014.649), số người đang được điều trị chưa bằng 14% lúc cao nhất. Đây là kết quả rất có ý nghĩa và chính lúc này, Chính phủ Ấn Độ đã nới lỏng hàng loạt biện pháp chống dịch: người dân được tham dự các lễ hội truyền thống, các cuộc mít tinh, vận động bầu cử, việc đeo khẩu trang bị lơ là. Chỉ trong vòng 2 tháng sau đó, Ấn Độ bùng phát dịch với mức độ chưa từng có, số người đang được điều trị tăng vọt từ 138.254 người lên 1.679.121 vào ngày 16/4/2021 và sau đó 2 tuần lên mức 3.272.256, Hình 2, gấp 240 lần ngưỡng có dịch. Số người chết từ 16/2/2021 đến 30/4/2021 là 55.890 người, nhiều hơn số người chết của hơn 7 tháng đầu năm 2020 (15/1/2020 – 20/8/2020) là 54.975 người.

Vì sao khi mức độ lây nhiễm cộng đồng, thể hiện qua số người đang được điều trị đã giảm 86% mà vẫn bùng phát dịch khi gỡ bỏ các biện pháp phòng chống dịch cơ bản? Vấn đề chính là ở chỗ: số người đang được điều trị ngày 16/2/2021 tuy chỉ bằng chưa tới 14% lúc đạt đỉnh dịch (hơn 1 triệu người ngày 18/9/2020), song nó vẫn gấp hơn 10 lần ngưỡng có dịch (138.254 người đang điều trị so với 13.664 người). Bỏ các biện pháp phòng chống dịch khi dịch đang còn tuy ở mức không cao cùng với xuất hiện chủng mới của virus corona đã dẫn đến dịch bùng phát trở lại với mức độ cao hơn trước, Hình 2.

Kể từ khi bắt đầu có dịch, 19/4/2020 đến khi chính phủ gỡ bỏ các biện pháp phòng chống dịch cơ bản, 16/2/2021, là tròn 10 tháng liên tục. Người dân phải chịu đựng các hạn chế trong cuộc sống, hoạt động kinh tế bị thu hẹp thời gian dài như vậy để lại hậu quả rất nặng nề. Kinh tế Ấn Độ năm 2020 tăng trưởng âm 5,7%.

Dưới góc độ nghiên cứu, để rút ra các bài học cần thiết có thể nêu câu hỏi: Nếu Ấn Độ không dỡ bỏ các biện pháp phòng chống dịch cơ bản vào 16/2/2021, mà tiếp tục phòng chống dịch như trước, thì bao giờ hết dịch, thiệt hại xã hội do phải áp dụng các biện pháp phòng chống dịch khắt khe là gì? Không có cơ sở để trả lời chính xác câu hỏi này. Tuy nhiên, kinh nghiệm về các quá trình xã hội và tự nhiên và thực tế diễn biến dịch ở Ấn Độ đến 16/2/2021 có thể cho ta một dự báo sơ bộ: Nhiều khả năng dịch sẽ kết thúc sau 7,5 tháng từ ngày đạt đỉnh 18/9/2020, nghĩa là khoảng đầu tháng 5/2021.

Tức là, nếu kéo dài thời gian phòng chống dịch thêm 3 tháng sau 16/2/2021 thì rất nhiều khả năng dịch sẽ kết thúc.

Rõ ràng việc phòng chống dịch thêm 3 tháng này sẽ gây thiệt hại cho người dân, nền kinh tế, đảo lộn lịch bầu cử, song các thiệt hại này sẽ là rất nhỏ so với những thiệt hại do bùng phát dịch hiện nay đã và sẽ gây ra trong nhiều tháng tới.

Có thể coi đây là bài học 3, Bài học về phương châm phòng chống dịch: phòng chống dịch là ưu tiên số 1 và làm sao ít ảnh hưởng tiêu cực nhất đến kinh tế, xã hội:“Khi giải quyết mâu thuẫn giữa phòng chống dịch và nhu cầu đảm bảo cuộc sống bình thường của người dân, phát triển kinh tế và các hoạt động chính trị, phải ưu tiên hàng đầu là không để xảy ra dịch, khi có dịch phải kiểm soát lây nhiễm và dập dịch nhanh nhất, bằng các biện pháp đồng bộ, có thể khác nhau giữa các địa bàn và trong các giai đoạn khác nhau, phù hợp với quy luật phát triển của dịch và đặc điểm cụ thể của mỗi địa phương, để ít ảnh hưởng tiêu cực nhất đến đời sống người dân, phát triển kinh tế và hoạt động chính trị”.

III. Một số việc Việt Nam nên xem xét làm ngay:

Tình hình dịch ở Campuchia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia, Đài Loan, Ấn Độ hơn 1 tháng qua và diễn biến lây nhiễm ở Việt Nam 4 tuần qua cho thấy: Việt Nam đang bước vào làn sóng lây nhiễm thứ 4, từ 7/4/2021 đến nay. Ngày 13/5/2021, số người đang điều trị/1 triệu dân của Việt Nam đã vượt mốc 970 người (ngưỡng có dịch của Việt Nam với dân số 97 triệu người).

Từ kinh nghiệm, bài học quốc tế và TP.HCM, tôi thấy 9 việc sau cần được xem xét để làm ngay:

1. Huy động toàn bộ lực lượng, quyết tâm chính trị để ngăn chặn lây nhiễm Covid-19, không để các tỉnh, thành phố trở thành tỉnh, thành phố có dịch

- Mỗi địa phương cần nhận thức rõ mục tiêu “Không để tỉnh, thành phố mình trở thành nơi có dịch” là gì: số người đang điều trị Covid-19 không quá 10 lần dân số tỉnh tính bằng triệu người, như TP.HCM không có quá 95 người đang được điều trị, Hà Nội: 85 người, Hải Dương: 19 người, Quảng Ninh: 11 người, Hà Nam: 9 người, Vĩnh Phúc: 12 người (số người đang điều trị ≤ 10 người/1 triệu dân).

Việc phòng ngừa, phát hiện, truy vết, cách ly, điều trị phải làm quyết liệt để các tỉnh, thành phố không vượt ngưỡng này. Đây chính là nhiệm vụ tại chỗ của mỗi địa phương.

- Theo kinh nghiệm của TP.HCM 2020, 1 người dương tính tại chỗ sẽ đòi hỏi cách ly khoảng 280 người F1, F2. Như vậy có thể ước lượng (do chưa có thống kê của Bộ Y tế), ở Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, tỉ lệ cách ly khoảng 200 người/1 F0, các tỉnh đồng bằng khoảng 100 người/1 F0, các tỉnh miền núi khoảng 50 người/1 F0, để làm cơ sở chủ động xây dựng các cơ sở cách ly.

- Nếu TP.HCM dự báo giữ được không quá 90 người nhiễm phải điều trị, thì phải chuẩn bị sẵn sàng 18.000 chỗ cách ly, Hải Dương nếu dự báo có 19 người đang điều trị thì cần 1.900 chỗ, Vĩnh Phúc nếu dự báo có 12 người đang điều trị thì cần 1.200 chỗ. Nơi nào chưa đủ, phải làm xong trong 1 tuần.

- Trong trường hợp số người nhiễm lên đến khoảng vài trăm người thì số phải cách ly (F1, F2) sẽ lên đến hàng chục ngàn người, đòi hỏi xét nghiệm với quy mô rất lớn. Do đó cần chuẩn bị đủ thiết bị, hóa chất và lực lượng y tế để hoàn thành được nhiệm vụ này trong thời gian rất ngắn.

2. Trong trường hợp 1 số tỉnh, thành phố không ngăn được lây lan, trở thành có dịch, thì phải đặt mục tiêu khống chế tốc độ lây lan sao cho tổng số người đang được điều trị và cách ly không vượt quá khả năng của hệ thống y tế và hệ thống cách ly, trong trường hợp xấu nhất cũng không vượt quá 30 lần ngưỡng có dịch của địa phương.Như vậy, mới có cơ hội đưa địa phương trở lại trạng thái không có dịch sau 2-3 tháng.

Khi Hải Dương có dịch vào tháng 2 và 3/2021, số người được điều trị lúc cao nhất là 491 người, gấp gần 26 lần ngưỡng có dịch (19 người). Kinh nghiệm 23 nước không có dịch Covid-19 từ 3/2020 – 4/2021 là tỉ lệ này không vượt quá 30.

Trong trường hợp này số chỗ cách ly phải chuẩn bị tối đa là: 30 lần ngưỡng có dịch x 200 (ở các thành phố), x 100 (các tỉnh đồng bằng), x 50 ở các tỉnh miền núi.

Nếu TP.HCM có dịch, dự báo số người đang được điều trị là 1.000 (gấp 10,5 lần ngưỡng có dịch) thì phải chuẩn bị 1.000 x 200 = 200.000 chỗ cách ly, đây là điều hết sức khó khăn. Còn nếu có 2.500 người đang được điều trị (gấp 26 lần ngưỡng có dịch) thì cần tới 500.000 chỗ cách ly. Đòi hỏi này không khả thi. Nếu Hà Nam dự báo có 90 người phải được điều trị (gấp 10 lần ngưỡng có dịch) thì phải chuẩn bị 90 x 100 = 9.000 chỗ cách ly, sẽ là thách thức rất lớn. Vì vậy các các địa phương cần thấy trước nguy cơ “vỡ trận” về chỗ cách ly và phương tiện, lực lượng xét nghiệm, nếu để số người đang được điều trị vượt ngưỡng có dịch 10 – 20 lần, từ đó dồn mọi sức lực để khống chế gia tăng lây nhiễm.

3. Các địa phương cần có đề án liên kết tổ chức cách ly hiệu quả

Vừa qua, việc tổ chức cách ly đã bộc lộ nhiều hạn chế. Vì vậy Chính phủ cần chỉ đạo các địa phương kết hợp các lực lượng: Y tế, Quân đội, Công an, các đơn vị cách ly lập đề án liên kết đảm bảo yêu cầu cách ly được thực hiện nghiêm ngặt, nhất là khi quy mô cách ly lớn.

4. Ngăn chặn hiệu quả xâm nhập trái phép

Xâm nhập trái phép đang là nguy cơ mang lây nhiễm vào Việt Nam lớn nhất. Cần làm rõ động cơ người xâm nhập trái phép. Nếu người Việt Nam ở nước ngoài (Lào, Campuchia…) về nước vì an toàn tính mạng của họ vì đang ở nơi có dịch, thì cần công khai thời gian, quy trình, địa điểm đón và cách ly họ, làm cho việc họ về nước có chủ trương, tổ chức và kiểm soát được phù hợp với tình hình ở Việt Nam.

Còn công dân nước ngoài xâm nhập trái phép vào Việt Nam phải xử lý thật nghiêm để triệt tiêu động lực xâm nhập trái phép của các đối tượng này.

5. Do lây nhiễm trong nước đang ở giai đoạn bùng phát thành dịch trong tháng 5/2021, nên đề nghị tạm dừng cho người nước ngoài từ các nước có dịch nặng vào Việt Nam trong vòng 4 tuần tới, trừ các trường hợp thật đặc biệt.

6. Bộ Y tế cần hướng dẫn các biện pháp phòng chống dịch tương ứng với tình hình lây nhiễm ở các địa phương:

1. Một địa phương chưa có hoặc không còn người lây nhiễm cộng đồng,song các địa phương khác có lây nhiễm, có dịch thì phải làm gì (hiện nay có 15 tỉnh không có lây nhiễm cộng đồng).

2. Một địa phương xuất hiện lây nhiễm cộng đồng nhưng chưa có dịchthì phải làm gì, để đạt mục tiêu không để xảy ra dịch (hiện nay có 32 tỉnh, thành phố thuộc diện này).

3. Một địa phương bắt đầu có dịch, ở mức rất nhẹ, không quá 10 lần ngưỡng có dịchthì phải làm gì, phối hợp với các tỉnh giáp ranh và Bộ Y tế như thế nào để hết dịch (hiện nay có 13 tỉnh, thành phố thuộc diện này).

4. Một địa phương có dịch nhẹ với tỉ lệ người đang điều trị/1 triệu dân gấp 10 lần - 30 lần ngưỡng có dịchthì cần phải làm gì, trách nhiệm của các tỉnh giáp ranh và Trung ương phải hỗ trợ thế nào, để kéo giảm số người đang điều trị/1 triệu dân xuống dưới 10 người, hết dịch (hiện nay Đà Nẵng, Bắc Giang, Bắc Ninh thuộc diện này).

7. Cần thực hiện phương châm 5 tại chỗ, trong đó tại chỗ đầu tiên là: Xác định nhiệm vụ tại chỗ.

Ứng với 4 mức lây nhiễm và có dịch nêu trên, mỗi cấp chính quyền, mỗi cơ quan đơn vị, mỗi ngành (Công an, Bộ đội, Y tế) và cấp ủy căn cứ hướng dẫn của Bộ Y tế cần tự xác định nhiệm vụ của mình là gì, từ đó triển khai 4 tại chỗ khác: Chỉ huy tại chỗ; Lực lượng chuyên môn (con người) tại chỗ; Thiết bị, vật tư, phương tiện tại chỗ; Hậu cần tại chỗ. Thực tế tại TP.HCM từ tháng 2/2020 đến nay đã khẳng định, thực hiện 5 tại chỗ đã làm cho các cấp chính quyền, các ngành rất chủ động và tự chịu trách nhiệm.

8. Chuẩn bị khả năng một số tỉnh thành phố bầu cử trong trạng thái có dịch

Đến ngày 17/5/2021, 16 tỉnh, thành phố có trạng thái lây nhiễm Covid-19 vượt ngưỡng có dịch (10 người đang điều trị/1 triệu dân). Đến ngày bầu cử 23/5/2021, có thể sẽ có thêm 1 số tỉnh cũng thuộc nhóm này. Trên cơ sở xem xét mức độ lây nhiễm ở từng quận, huyện mà mỗi tỉnh, thành phố xác định quận nào, huyện nào đã vượt ngưỡng có dịch để từ đó tổ chức bầu cử cho phù hợp, đảm bảo an toàn dịch và bầu cử đúng quy định.

9. Cần nâng cao hiệu quả truyền thông về tiêm vắc xin,tránh gây ngộ nhận, chủ quan trong phòng chống dịch ở một bộ phận nhân dân vì cho rằng việc tiêm vắc xin trong vài tháng tới sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ lây nhiễm Covid-19 ở Việt Nam. Việc tiêm vắc xin ở Việt Nam đến nay đạt khoảng 1% dân số đã tiêm 1 lần, trong khi để đạt miễn dịch cộng đồng phải tiêm 2 lần cho khoảng 70% dân số. Tức là chúng ta cần khoảng 135 triệu liều vắc xin. Hiện nay chưa thấy khả năng Việt Nam nhận được khoảng 100 triệu liều vắc xin trong 3 tháng tới. Bộ Y tế cần công bố rõ đối tượng được tiêm, lịch tiêm lần 1 và lần 2 đồng thời và tác động xã hội của việc tiêm này để phòng chống dịch nói chung và việc tiêm vắc xin nói riêng đạt hiệu quả cao nhất.

IV. Nhận định

Tình hình lây nhiễm và dịch ở Việt Nam hiện nay cao hơn nhiều so với 3 làn sóng lây nhiễm trước. Thực tế chúng ta đã bước vào trạng thái một nước có dịch Covid-19, song còn ở mức rất nhẹ. Tỉ lệ người đang điều trị/1 triệu dân chỉ khoảng 19 người, trong khi bình quân thế giới hiện là 2.156 người, gấp hơn 110 lần của Việt Nam. Với kinh nghiệm phòng chống dịch thành công trong hơn 1 năm qua, tham khảo các bài học và kinh nghiệm các nước, khắc phục các hạn chế đã bộc lộ, chúng ta hoàn toàn có thể khống chế thành công làn sóng lây nhiễm thứ 4, đưa đất nước Việt Nam trở về trạng thái bình thường mới, không có dịch, tuy còn lây nhiễm cục bộ, quy mô nhỏ.

3 địa phương có dịch nặng nhất hiện nay là Bắc Giang (285 người đang điều trị/1 triệu dân), Đà Nẵng (có 237 người đang điều trị/1 triệu dân), Bắc Ninh (235 người đang điều trị/1 triệu dân), với tổng số người đang điều trị là 1.015 người, chiếm 56% số người đang điều trị của cả nước (1.815 người). Dịch tại 3 địa phương đều chưa đạt đỉnh. Nếu tại 3 địa phương này việc chống dịch được triển khai quyết liệt, có sự phối hợp hiệu quả của Trung ương và các địa phương, bám sát 3 bài học và 2 kinh nghiệm phòng chống dịch thành công của 23 nước không có dịch trên thế giới thì sau khoảng 2 tháng nữa, 3 địa phương có thể hết dịch.

Để việc phòng chống dịch Covid-19 ở nước ta chuyển sang giai đoạn mới, trên nền tảng tiêm vắc xin cho đa số người dân, Việt Nam cần đẩy nhanh việc nghiên cứu, thử nghiệm và sản xuất vắc xin trong nước, đồng thời tận dụng các cơ hội để mua vắc xin từ các nguồn hợp pháp trên thế giới.

Giáo sư Nguyễn Thiện Nhân

Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội TP.HCM

(18/5/2021)

GS.TS Nguyễn Thiện Nhân đề xuất chiến lược 5 điểm cho tiêm chủng vắc xin Covid-19

GS.TS Nguyễn Thiện Nhân đề xuất chiến lược 5 điểm cho tiêm chủng vắc xin Covid-19

Theo GS.TS Nguyễn Thiện Nhân, dịch Covid-19 có mức độ nhiễm rất khác nhau ở các nước và sự phân bổ rất không đồng đều các nguồn lây nhiễm toàn cầu.

">

Một năm và 50 ngày đại dịch Covid

Gần ngày ra mắt iPhone 12, dân buôn vẫn như ngồi trên đống lửa - 1
Bộ Y tế chưa ban hành quy trình hướng dẫn kiểm dịch và cách ly y tế với khách nhập cảnh vào Việt Nam

Như vậy, thông tin về việc tạm dừng những chuyến bay thương mại quốc tế về Việt Nam là chưa chính xác. Tuy nhiên, để đưa được máy về Việt Nam trong thời gian ngắn, những dân buôn sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn.

Hoạt động bay chở khách thương mại thường lệ 2 chiều hiện mới chỉ được thiết lập trên đường hàng không Việt Nam - Hàn Quốc. Chính vì thế, Hàn Quốc hiện được xem là thị trường tiềm năng nhất mà dân buôn đang hướng tới để có thể xách tay iPhone 12 về một cách nhanh nhất.

Trên thực tế, kể từ cuối tháng 9 tới nay, mới chỉ có 2 chuyến bay chở khách từ Hàn Quốc vào Việt Nam, một chuyến do Vietnam Airlines khai thác chặng Hà Nội - Seoul - Hà Nội và một chuyến Vietjet khai thác chặng TPHCM - Seoul - TPHCM.

Có thể thấy, số lượng chuyến bay đang được triển khai rất ít. Đồng thời, những quy định về cách ly hiện vẫn chưa được thống nhất. Vì thế, ngay cả khi Apple mở bán iPhone 12 trong đợt đầu tại thị trường Hàn Quốc, dân buôn Việt Nam cũng chưa chắc có thể bay sang quốc gia này và đưa máy về kịp thời.

“Tôi và một số anh em vẫn đang liên tục theo dõi thông tin về chuyến bay cũng như các quy định cách ly. Nếu quy trình quá phức tạp, có thể tôi sẽ chọn giải pháp nhập lại hàng thông qua một số đầu nậu trung gian, thay vì tự mình đi mua máy và xách về như mọi năm”, ông Vũ Duy, chủ một cửa hàng chuyên kinh doanh iPhone xách tay tại Cầu Giấy, Hà Nội chia sẻ.

Giá iPhone 12 xách tay sẽ “hạ nhiệt” lâu hơn mọi năm

Với hàng loạt khó khăn trong việc đưa máy về thị trường Việt Nam, nhiều chủ cửa hàng nhận định rằng mức giá đối với iPhone 12 xách tay sẽ bị “thổi lên” cao hơn nhiều so với mọi năm, đặc biệt là với những chiếc máy đầu tiên.

Gần ngày ra mắt iPhone 12, dân buôn vẫn như ngồi trên đống lửa - 2
Do tình trạng khan hiếm, giá bán của iPhone 12 sẽ "hạ nhiệt" lâu hơn mọi năm.

“Giá bán của iPhone 12 xách tay nhiều khả năng sẽ hạ nhiệt lâu hơn mọi năm. Thông thường, hàng xách tay sẽ bình ổn giá sau khoảng 3-5 ngày khi được đưa về Việt Nam. Tuy nhiên, năm nay, việc này có thể sẽ kéo dài lên đến 2 tuần do lượng hàng về khan hiếm”, ông Lê Xuân Tình, đại diện một cửa hàng điện thoại tại đường Lê Hồng Phong, Quận 10, TP.HCM chia sẻ.

Hiện tại, nhiều cửa hàng ở cả Hà Nội cũng như TP.HCM đều đã nhận đặt hàng trước iPhone 12. Tuy nhiên, theo khảo sát của Dân trí, đa số cửa hàng đều không cam kết ngày trả máy cụ thể cho khách hàng.

Một nguồn tin giấu tên tiết lộ với Dân trí rằng sẽ có lượng nhỏ máy được đưa về Việt Nam trong thời gian rất sớm. Tuy nhiên, người này cho biết thêm mức giá của chúng có thể sẽ khiến nhiều người phải chùn bước.

“Giá bán của lô hàng đầu tiên sẽ rất cao và chỉ dành cho những người thực sự chịu chi. Nếu không quá vội trải nghiệm những tính năng mới trên iPhone 12, khách hàng nên chờ đợi khoảng 1-2 tuần để sản phẩm trở về đúng với giá trị của nó”, người này nói.

(Theo Dân Trí)

iPhone 12 chưa ra, phụ kiện đã có ở Việt Nam

iPhone 12 chưa ra, phụ kiện đã có ở Việt Nam

Dù còn gần 1 tuần nữa iPhone 12 mới ra mắt nhưng các phụ kiện như ốp lưng, kính cường lực dành cho smartphone này đã có mặt ở các cửa hàng trong nước.

">

Gần ngày ra mắt iPhone 12, dân buôn vẫn như ngồi trên đống lửa

友情链接