Trước đó, Trường THPT Lô-mô-nô-xốp (Mỹ Đình, Hà Nội) vừa ravăn bản với nội dung: “Thực hiện nội quy nhà trường, căn cứ ý kiến của CMHS (chamẹ học sinh) trong Hội nghị Ban đại diện CMHS nhà trường ngày 6/9/2015, để đảmbảo sự an toàn cho học sinh trước hiện tượng bán son giả tràn lan trên thịtrường, không kiểm soát được nguồn gốc, chất lượng cũng như thời hạn sử dụng,Ban giám hiệu nhà trường quyết định bắt đầu từ 7h sáng ngày 21/9/2015 tất cả cáchọc sinh nữ không được tô son khi đến trường. Bảo vệ và bộ phận đức dục trựcngoài cổng trường không cho học sinh nữ tô son mỗi khi vào trường.
Giáo viên bộ môn dạy trên lớp không cho học sinh tô son môivào lớp học. Nhà trường kiểm tra phát hiện thấy học sinh nữ nào tô son môi tronglớp học thì lớp đó sẽ phải chịu sự phê bình nghiêm khắc của nhà trường. Giáoviên bộ môn dạy tiết đó sẽ phải chịu trách nhiệm trước ban giám hiệu.
Bộ phận đức dục và giám thị kiểm tra hành chính đột xuất cáclớp học, học sinh nữ nào mang son môi thì giữ lại và mời CMHS lên nhận lại. Cácbộ phận hành chính như văn phòng, thu ngân, đoàn đội không giải quyết các thủtục hành chính cho các học sinh nữ tô son môi.
Trong buổi họp tổ, nhóm bộ môn ngày 17/9/2015 trưởng các bộmôn đọc thông báo này cho giáo viên trong bộ môn biết và thực hiện. Trong giờsinh hoạt lớp ngày18/9/2015, giáo viên chủ nhiệm cũng trao đổi với học sinh nữvề nội quy nhà trường, về sự mong muốn của cha mẹ học sinh, tác hại của việcdùng son môi kém chất lượng để học sinh nữ hiểu và tự giác thực hiện 100% họcsinh nữ ký tên vào phía sau thông báo này và giáo viên chủ nhiệm nộp về cho haiđồng chí giám thị trước 14h30 chiều 18/9/2015”.
Lãnh đạo nhà trường trả lời báo chí cho rằng quy định trênđược ban hành theo nguyện vọng của các bậc phụ huynh. Hơn nữa, việc các nữ sinhsử dụng quá nhiều son môi khi đến trường là không phù hợp vì trường liên cấp,còn có các em học sinh cấp 2, cấp 1.
Bình luận về quy định này, ông Nguyễn Tùng Lâm, Chủ tịch HĐQTTrường THPT Đinh Tiên Hoàng - Chủ tịch Hội Tâm lí giáo dục Hà Nội cho rằng: "Trangphục, trang điểm đến trường đối với học sinh, nhất là học sinh nữ hiện nay rấtquan trọng. Chuyện trang điểm là vấn đề thẩm mỹ và nhu cầu riêng của các em dođó không nên quá độc đoán, cứng nhắc. Nếu các em vẽ lông mày, tô son quá đậm hayxăm trổ thì giáo viên, nhà trường can thiệp. Nên lấy ý kiến của học sinh khithực hiện các việc này".
Ở ngôi trường vốn có tiếng về việc học sinh nghịch ngợm nhưngtheo ông Lâm, nhà trường không có quy định cấm học sinh trong chuyện ăn mặc,trang điểm. Giáo viên khi thấy học sinh có chuyện trang điểm hay ăn mặc quá lênthường sẽ trao đổi trực tiếp với học sinh hoặc đưa vấn đề ra trước lớp để cùngthảo luận, thống nhất cách làm.
Trao đổi với VietNamNet, Phó GĐ Sở GD-ĐT Hà Nội Nguyễn HiệpThốngcho rằng: "Quy định Điều lệ trường phổ thông của Bộ GD-ĐT không cấm việcnày, chỉ yêu cầu các em ăn mặc chỉn chụ, gọn gàng, sạch sẽ khi đến trường. Nếuquá lố lăng phản cảm thì bị cấm, không thì chỉ cần nhắc nhở".
Với quy định của Trường THPT Lô-mô-lô-xốp theo ông Thống: "Nếutrường làm cần có sự đồng thuận phụ huynh và học sinh. Chúng ta không khuyếnkhích cũng như không ngăn cấm và xử lí quá cực đoan vấn đề này".
Văn Chung
Về tự chủ đại học và tự chủ các cơ sở dạy nghề, ông Quân cho rằng nhiệm kỳ vừa qua đã đạt được rất nhiều thành công và Chính phủ đã quan tâm, Quốc hội cũng quan tâm với nhiều đạo luật mới và nhiều nghị định mới.
GS Lê Quân: Phải coi học phí là rào cản tránh sinh viên lao vào đại học trở thành 'học đại' |
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, chúng ta còn khá nhiều vướng mắc.
'Tôi cho rằng trong 6 tháng cuối năm cũng như trong 5 năm tới, Chính phủ có thể quan tâm hơn đến vấn đề này. Chỉ khi chúng ta triển khai tốt vấn đề tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học và nghề nghiệp thì chúng ta mới có nhanh được nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển' - ông Quân nói.
Ba vấn đề ông Quân cho rằng cần điều chỉnh:
Thứ nhấtlà thời gian qua cơ sở giáo dục cũng như các cơ sở y tế đóng góp rất quan trọng vào cắt giảm chỉ tiêu biên chế hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, chủ trương và tư duy của Chính phủ cũng đã thay đổi và rất nhiều chính sách cũng đã thay đổi, chúng ta không còn hiểu là tự chủ đi liền với cắt giảm chi thường xuyên của ngân sách nữa. Tuy vậy, trong quá trình triển khai còn rất lúng túng. Chúng ta nói rằng chuyển từ chi thường xuyên sang chi đặt hàng nhưng việc đặt hàng là vô cùng khó khăn và thiếu hành lang pháp lý.
Hiện nay, chúng ta biết rằng những lĩnh vực như an ninh, quốc phòng hoặc sư phạm có thể đặt hàng, đấy là những chỉ tiêu cho các khu vực công. Còn lại khu vực tư đa phần các doanh nghiệp không thể ký trực tiếp đặt hàng, trừ một số doanh nghiệp lớn cần nhân lực kỹ thuật sâu và chuyên môn kỹ năng cao. Do đó, trong thời gian qua có một thực tế là rất nhiều cơ sở giáo dục đại học và nghề nghiệp chuyển sang tự chủ nhưng không nhận được chi thường xuyên, do đó đây cũng là một quá trình mà chúng ta thấy sốc.
Như vậy, chúng ta thấy ưu tiên cho phát triển giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp đòi hỏi ngân sách của Nhà nước chúng ta phải tăng cao lên hằng năm, chứ không có nghĩa là chúng ta giảm đi được. Do đó, tôi kiến nghị với Chính phủ trong thời gian tới, chúng ta cần có một quan điểm là chuyển chi thường xuyên của các cơ sở sang tự chủ thành chi đầu tư. Chúng ta có thể không chi lương nhưng chúng ta hoàn toàn chi đầu tư để giúp nâng cao chất lượng và thu hút được người học.
Thứ haivề vấn đề tự chủ, đó là chính sách và các quan điểm về học phí. Có thể nói, nếu học phí hiện nay ngân sách chúng ta chỉ đảm bảo ở mức thấp, mức học hiện nay cũng thấp. Chúng ta thường có quan điểm phải quy định một mức trần học phí, tức là mức học phí cao nhất. Mức trần này thường đáp ứng rất thấp so với kỳ vọng và yêu cầu của các cơ sở giáo dục.
Do đó, chúng ta cần có quan điểm tư duy là làm sao có chính sách thật tốt để con em nghèo học giỏi hoặc các em học giỏi có thể tiếp cận được học bổng và được đảm bảo quyền học đại học. Chúng ta cũng phải đảm bảo học phí cũng là một rào cản kỹ thuật để tránh việc học sinh lao vào học đại học và trở thành 'học đại'. Chúng ta phải coi học phí đối với người học là một nguồn đầu tư.
Thông lệ quốc tế học phí bao giờ cũng bằng gần 2 năm tiền lương sau khi tốt nghiệp. Như vậy, mới đảm bảo được chính sách này. Tôi kiến nghị làm sao để cho các cơ sở giáo dục không nhất thiết phải tự chủ hoàn toàn mới được xác định học phí trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật.
Thứ ba, tư duy về tự chủ, nhưng cũng phải thay đổi tư duy về quản lý nhà nước. Nhiệm kỳ trước chúng ta đã có những chuyển biến rất tích cực, hệ thống chúng ta đang chuyển biến tốt thì nhiệm kỳ này tiếp tục chuyển biến mạnh hơn.
Tự chủ thì phải làm sao chúng ta quản lý chất lượng đầu ra, đánh giá được bộ chỉ số để đánh giá được hiệu quả cũng như chất lượng của từng cơ sở, của từng ngành nghề, vấn đề việc làm, chất lượng việc làm và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tự chủ là để từng cơ sở phải có trách nhiệm giải trình về việc mình đóng góp ra sao cho xã hội, còn tự chủ chúng ta vẫn hiểu theo nhiều tư duy đếm số m2, đếm số giáo viên để cho chỉ tiêu tuyển sinh, chúng ta vẫn can thiệp quá sâu vào vấn đề chức danh này phải kiêm chức danh kia hay rất nhiều yếu tố khác.
Chúng ta cũng có những lúng túng như bắt buộc Chủ tịch Hội đồng trường phải là cơ hữu. Những vấn đề đó cũng là hạn chế, trong khi có nhiều trường, nhiều cơ sở có thể mời những người có vai trò quan trọng với trường tham gia điều hành hội đồng trường này. Những quan điểm phải dạy chính quy xong mới được dạy tại chức hay phải dạy đại học xong mới được dạy cao học. Những tư duy này tôi cho rằng rất nhiều những quy định chính sách hiện nay cần thay đổi để đảm bảo các đơn vị cơ sở được tự chủ về học thuật cao hơn.
Trần Thường (ghi)
Trong 16 trường có học phí cao nhất cả nước, có 5 trường công lập, còn lại 11 trường tư thục.
" alt=""/>GS Lê Quân: Phải coi học phí là rào cản tránh sinh viên lao vào đại học trở thành học đạiTS Nguyễn Thị Kim Phụng: Trước con số 15.000 người để chuyển trường đại học thành đại học, nhiều người đặt ra câu hỏi “Tại sao lại phải là quy mô?”. Ở đây có câu hỏi ngược lại là: “Vậy tại sao lại phải chuyển thành đại học?”.
Không chuyển thành đại học, một trường đại học vẫn có thể có chất lượng đào tạo tốt. “Đại học” hay “trường đại học” không phải là yếu tố cơ bản để phản ánh chất lượng đào tạo. Khi chuyển trường đại học thành đại học, trước hết là muốn tạo nên một cơ sở giáo dục đại học lớn mạnh, đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực - những ngành mà xã hội thực sự cần thiết, phản ánh thông qua việc thu hút được một lượng người học nhất định.
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng giải đáp thắc mắc của các trường đại học tại hội nghị triển khai nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học sáng 6/1. Ảnh: Kim Hiền |
Hình thành các đại học đa lĩnh vực còn để phối hợp, hỗ trợ nhau trong đào tạo, nghiên cứu liên ngành; chung tay giải quyết những vấn đề lớn, tổng thể về nền kinh tế xã hội của đất nước, vùng, miền...
Bên cạnh đó, phải có các đại học lớn có chất lượng thì tên tuổi của các đại học Việt Nam mới được ghi danh trên bản đồ các đại học trên thế giới. Gần đây, Việt Nam có 5 đại học lớn lọt vào một số bảng xếp hạng trong khu vực, thế giới. Trong khi có những trường rất tốt khác như Trường ĐH Y Hà Nội lại không lọt vào các bảng xếp hạng đó. Một trong những nguyên nhân là bởi quy mô trường còn nhỏ. Nếu tính tỉ lệ công bố khoa học bình quân, có thể trường Y không kém; nhưng do không phải trường đa ngành, đa lĩnh vực nên nếu nhìn ở tầm quốc tế thì đó chỉ là một chấm nhỏ, không “sánh vai được với các cường quốc” đại học trong các bảng xếp hạng uy tín.
Trong điều kiện công nghệ phát triển nhanh chóng, yêu cầu về nguồn nhân lực, cơ cấu ngành nghề cũng thay đổi theo; một số ngành mới trở thành nhu cầu và một số ngành cũ có thể dần thu hẹp, thậm chí không còn cần thiết nữa… Với một trường đa lĩnh vực, khi ngành này giảm thì ngành kia tăng để gánh đỡ cho nhau. Như vậy sẽ không có tình trạng phải đóng cửa, giải thể hay “xóa sổ” một trường, làm phát sinh nhiều hệ luỵ phải giải quyết.
“Đủ chuẩn thì bằng kỹ sư, bác sĩ mới tương đương thạc sĩ”
Phóng viên: Chiếu theo khung năng lực quốc gia, bằng kỹ sư, bác sĩ tương đương với thạc sĩ. Xin bà giải thích rõ hơn về sự tương đương này?
TS Nguyễn Thị Kim Phụng: Nói tất cả các bằng kỹ sư, bác sĩ tương đương với thạc sĩ không hẳn đã chính xác.
Nguyên tắc xác định tương đương đã có quy định ở tại Khoản 2, Điều 14. Vì vậy, xác định văn bằng nào nằm ở bậc 6 hay bậc 7, thì phải xem xét đồng thời các tiêu chuẩn được quy định nêu trên chứ không chỉ dựa vào khối lượng học tập, không quy đơn giản tính từ số tín chỉ hay số năm học ra trình độ được đào tạo.
Trong năm 2020, Bộ sẽ ban hành Thông tư quy định chuẩn chương trình của các trình độ giáo dục đại học.
Chuẩn chương trình này là chuẩn đầu vào, chuẩn khối lượng học tập tối thiểu, chuẩn giảng viên, chuẩn đầu ra và các chuẩn khác nữa như chuẩn về phát triển chương trình, kiểm tra đánh giá…
Mỗi trình độ đều có chuẩn riêng, những chuẩn này không phải đợi đến khi ban hành thông tư mới có mà thực tế, các chuẩn cơ bản đã có rồi nhưng chưa được tập hợp đầy đủ trong một văn bản.
Ví dụ chuẩn đầu vào, chuẩn khổi lượng học tập, chuẩn đầu ra đã có trong Khung trình độ quốc gia, chuẩn giảng viên có trong Luật GDĐH... Khi Bộ GD-ĐT ban hành Thông tư này sẽ quy định cụ thể, chi tiết hơn và phải phù hợp với các văn bản có hiệu lực cao hơn nêu trên.
Sinh viên Trường ĐH Bách khoa Hà Nội khi tốt nghiệp kỹ sư có thể được công nhận tương đương thạc sĩ. Ảnh: HRRC |
Bác sĩ, kỹ sư dược sĩ, kiến trúc sư… có được coi là tương đương thạc sĩ hay không thì phải căn cứ vào thực tế chương trình đào tạo chuyên sâu và chuẩn chương trình của trình độ ThS.
Thực ra đây chỉ là chuẩn hóa thêm một bước các văn bằng đã có. Trước đây kỹ sư, bác sĩ, cử nhân được xếp trong một mặt bằng của bằng tốt nghiệp đại học.
Khi chưa có quy định này, người ta hình dung tất cả trên một mặt bằng thì sẽ bất lợi cho những người đã tích lũy được nhiều hơn nhưng không được thừa nhận ở mức cao hơn.
Còn bây giờ, phân ra thành khung bậc 6, bậc 7… có bằng cử nhân, thạc sĩ và các văn bằng đối với một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù để công nhận các giá trị tích luỹ chi tiết hơn.
Vì vậy, bằng bác sĩ, kỹ sư theo đúng chuẩn tại Nghị định này sẽ được công nhận ở mức cao hơn bằng cử nhân; nếu đạt chuẩn bậc 7 thì sẽ được công nhận tương đương thạc sĩ.
Phóng viên: Với những người đã có văn bằng này trước đây có được bỏ qua giai đoạn thạc sĩ để học thẳng lên nghiên cứu sinh hay không?
TS Nguyễn Thị Kim Phụng: Việc có được học thẳng lên NCS hay không còn phụ thuộc vào quy định về tuyển sinh đầu vào trình độ tiến sĩ sau này.
Tuy nhiên, rất ít văn bản có đủ cơ sở để quy định chính sách “hồi tố”.
Việc này hiện đang được một số trường và các nhóm nghiên cứu phối hợp với các đơn vị xây dựng chính sách của Bộ nghiên cứu để có quy định phù hợp khi sửa đổi, bổ sung quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ theo kế hoạch năm 2020.
Với nguyên tắc đào tạo liên thông đang được thực hiện thì trong thời gian tới, các cơ sở đào tạo có thể xem xét với từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở văn bằng người học đã được cấp cùng với bảng điểm, điều kiện thực hiện chương trình đào tạo và chuẩn đầu ra, số tín chỉ đã tích lũy… để công nhận đạt điều kiện đầu vào trình độ tiến sĩ hoặc yêu cầu cập nhật, bổ sung thêm kiến thức.
Việc cần cập nhật bổ sung kiến thức (nếu có) cũng nên coi là điều rất bình thường vì ngay cả khi có bằng ThS nhưng đã được cấp khá lâu hoặc do cơ sở đào tạo khác cấp hoặc chương trình đào tạo ThS có định hướng khác… thì cơ sở đào tạo vẫn có thể yêu cầu cập nhật, bổ sung kiến thức khi tham gia chương trình đào tạo tiến sĩ để đảm bảo chất lượng tốt hơn.
Nhìn chung, công nhận đủ điều kiện hay áp dụng liên thông đều cần phải có nguyên tắc chung để xem xét với những trường hợp cụ thể chứ không chỉ dựa vào tên gọi của bằng cấp hay số lượng tín chỉ.
Nếu trường cấp bằng kỹ sư nhưng chương trình đào tạo chỉ ở mức khoảng 120 tín chỉ, chuẩn giảng viên, chuẩn đầu ra… không đảm bảo thì không thể nói người có bằng kỹ sư đó tương đương thạc sĩ. Bây giờ các chương trình đào tạo phần lớn theo tín chỉ. Các trường cũng có hội đồng liên thông nên hoàn toàn có thể định lượng được và có cách giải quyết.
Như vậy, Luật số 34 giao cho Bộ GDĐT xây dựng chuẩn chương trình đào tạo các trình độ của GDĐH và việc Nghị định 99 quy định về hệ thống văn bằng GDĐH đã góp phần chuẩn hoá thêm một bước về bằng cấp GDĐH ở nước ta hiện nay.
Quyền tự chủ: Sẽ được quy định đồng bộ
Phóng viên: Nhìn tổng thể với những hành lang pháp lý mới này, chúng ta "cởi trói" được bao nhiêu phần trăm cho các trường tự chủ?
TS Nguyễn Thị Kim Phụng: Nghị định số 99/2019 đã hướng dẫn chi tiết những vấn đề mà Luật số 34 quy định Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn, đặc biệt là thực hiện chủ trương mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở GDĐH.
Những nội dung hướng dẫn chi tiết về quyền tự chủ trong hoạt động chuyên môn của các trường ĐH đã được thể hiện khá rõ trong Nghị định.
Những vấn đề liên quan đến nhân sự, tài chính, các trường thực hiện theo những quy định chung của Luật số 34, Nghị định này và các quy định hiện hành. Nghị định 99/2019 cũng mở rộng quy định cho cơ sở GDĐH công lập có quyền tự chủ về tổ chức, bộ máy và nhân sự để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhưng không được làm tăng số lượng người làm việc hưởng lương, mức lương, phụ cấp từ quỹ lương do ngân sách nhà nước cấp.
Hiện nay, Chính phủ đã có kế hoạch sửa đổi, bổ sung, thay thế một số văn bản như Nghị định số 55/2012/NĐ-CP về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 41/2012/NĐ-CP về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định 16/2015/NĐ-CP về quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập… Theo đó, quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH công lập sẽ được quy định đồng bộ.
Phóng viên: Theo Luật, thủ tục quyết định nhân sự hiệu trưởng được quy định cụ thể trong quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học, phù hợp với quy định của Đảng và pháp luật có liên quan.Vậy quy định của Đảng và pháp luật có liên quan cụ thể là gì?
TS Nguyễn Thị Kim Phụng: Có một số quy định liên quan tới thủ tục này như Quy định số 105/QĐ-TƯ của BCH TƯ về phân cấp quản lý, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ; Nghị định số 41/2012/NĐ-CP quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập…
Tuy nhiên, nếu đưa cụ thể vào Nghị định 99 này thì tuổi thọ của văn bản sẽ rất ngắn vì có văn bản như Nghị định số 41/2012 hiện đang được sửa đổi, bổ sung, thay thế.
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ từng nói các trường không thành lập bộ phận pháp chế theo quy định sẽ gặp khó khăn trong công tác tuân thủ pháp luật.
Càng tự chủ, các hiệu trưởng càng cần có bộ phận pháp chế để tham mưu chứ không phải tự mình làm hết mọi thứ. Đơn vị chuyên trách này của nhà trường sẽ nắm được ở từng thời điểm, liên quan đến bổ nhiệm nhân sự hiệu trưởng phải thực hiện theo quy định nào.
Hạ Anh - Thuý Nga
-“Ra đời” vào sát ngày cuối cùng năm 2019, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục Đại học sửa đổi được đón nhận với cả niềm vui lẫn điều chưa như ý.
" alt=""/>“Đủ chuẩn thì bằng kỹ sư, bác sĩ mới tương đương thạc sĩ”