Cuộc chiến Kênh đào Suez năm 1956 thường được mô tả là lần "quăng xúc xắc" cuối cùng của đế quốc Anh.

Vào năm 1956, địa cầu vẫn bị bao quanh bởi các tài sản và lãnh thổ phụ thuộc Anh, từ Caribe ở phía Tây đến Singapore, Malaysia và Hong Kong ở phía Đông. Nhưng trên thực tế, từ lâu Mặt trời đã bắt đầu lặn trên đế chế Anh. Thuộc địa lớn nhất của họ là tiểu lục địa Ấn Độ đã giành lại độc lập.

Các phong trào dân tộc chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các phần còn lại, được cổ vũ bởi nước Nga Xô viết. Bản thân nước Anh chỉ mới bắt đầu tái xuất từ sau thời kỳ thắt lưng buộc bụng hậu chiến, nhưng nền tài chính của họ đã bị đè bẹp bởi những khoản nợ tích tụ từ chiến tranh.

Tuy nhiên, vẫn còn những nhân vật quyền lực, những người không chấp nhận rằng Anh không còn là một sức mạnh hàng đầu nữa. Họ lấy lý rằng: chúng ta có vũ khí hạt nhân, một ghế thường trực Hội đồng Bảo an và lực lượng quân sự ở cả hai bán cầu; chúng ta vẫn là một cường quốc thương mại, có lợi ích sống còn trong việc lưu thông hàng hóa tự do trên toàn cầu.

{keywords}
Kho xăng nằm cạnh kênh đào Suez bị Không quân Anh tấn công năm 1956. Ảnh: AP

Nhưng còn có một động cơ khác, đen tối hơn, cho sự can thiệp vào Ai Cập: Đó là ý thức về sự vượt trội về quân sự đã được bồi đắp qua nhiều thế kỷ bành trướng đế quốc. Khi những người cách mạng ở Cairo dám đề nghị rằng họ sẽ phụ trách Kênh đào Suez, thì sự tức giận của chủ nghĩa đế quốc Anh lại nổi lên.

Bối cảnh lịch sử 

Từ giữa năm 1952, Vua Farouk, người cai trị Ai Cập, đã buộc phải sống lưu vong. Một năm sau, một nhóm sĩ quan quân đội chính thức kiểm soát chính phủ. 

Người đứng đầu chính phủ lâm thời là Tướng Mohammed Neguib, nhưng quyền lực thực sự đằng sau là một đại tá trẻ, người mơ ước tái khẳng định phẩm giá và tự do của một quốc gia Arab. Tên anh ta là Gamal Abdel Nasser.

Mục tiêu đầu tiên của Nasser là hất cẳng sự hiện diện quân sự liên tục của Anh trong khu vực Kênh đào Suez, vốn được coi là biểu tượng cho sự thống trị của đế quốc Anh suốt từ năm 1880, gây nhiều cay đắng cho Ai Cập.

Vào năm 1954, sau khi tuyên bố là người lãnh đạo Ai Cập, Nasser đã đàm phán một hiệp ước mới, buộc các lực lượng Anh phải rời đi trong vòng 20 tháng.

Ban đầu, quá trình chuyển giao quyền lực cơ bản diễn ra trong hòa bình, và ít gây chú ý giữa một thế giới vốn đã bị bủa vây bởi nhiều hỗn loạn. Chiến tranh Lạnh lên đến đỉnh điểm. Người Pháp bị hất khỏi Đông Dương và tham gia vào cuộc chiến tàn khốc ở Algeria; nhà nước non trẻ Israel chiến đấu chống lại đội quân của 6 nước Arab; và Anh đang cố sức cầm chân lực lượng nổi dậy ở Cyprus, Kenya và Malaya.

Chính trường Anh cũng đang trong thời kỳ chuyển giao, với một thế hệ lãnh đạo mới nổi lên sau khi Winston Churchill từ chức Thủ tướng năm 1955. Ông được kế vị bởi Anthony Eden.

Mặc dù từng là ngoại trưởng trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ 2, có nhiều kinh nghiệm nhưng Eden vẫn chưa bao giờ thấm thía một sự thật đơn giản thời hậu Thế chiến: rằng thế giới đã thay đổi mãi mãi.

Vào tháng 7/1956, những người lính Anh cuối cùng đã rút khỏi khu vực Kênh Suez. Nhưng ngày 26/7, Nasser bất ngờ tuyên bố quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez. 

{keywords}
Cảng Said nằm trên Kênh đào Suez. Ảnh: AP

Đáp lại, Thủ tướng Anh, Eden đã chuẩn bị một phản ứng không cân xứng kỳ cục: Một cuộc xâm lược toàn diện.

Chiến dịch quân sự

Quyết định quốc hữu hóa kênh đào Suez của Nasser đã kéo sau là những hoạt động ngoại giao tăng cường của Anh nhằm mục đích thiết lập một kiểu kiểm soát quốc tế đối với tuyến đường thủy chiến lược này. Nhưng hóa ra đó chỉ là một màn tung hỏa mù cho một chiến dịch quân sự.

Vào tháng 9/1956, Nasser có bài phát biểu đầy thách thức, bác bỏ ý tưởng giám sát quốc tế đối với tài sản quốc gia của Ai Cập. Tới lúc này thì cuộc chiến đã được chốt.

Ngày 31/10/1956, quân đội Anh và Pháp, với mũi nhọn là các lực lượng dù, đã xâm chiếm khu vực kênh Suez. Chính phủ hai nước nói với thế giới rằng họ phải đưa quân vào để chia tách lực lượng Ai Cập và Israel, từ đó bảo vệ quyền tự do hàng hải trên kênh. 

Nhưng thực tế là Anh và Pháp, trong các cuộc đàm phán tuyệt mật với Israel, đã tạo ra một thỏa thuận cho những chiến dịch quân sự phối hợp. 

Đúng ra, Israel mới là người có quyền “khiếu kiện” chính đáng nhất trong số 3 kẻ xâm lược. Bởi từ khi thành lập Nhà nước Do thái năm 1948, Ai Cập đã từ chối cho phép bất cứ tàu nào mang cờ Israel hoặc nhằm hướng Israel được đi qua Kênh Suez.

Các lực lượng Israel tràn vào sa mạc Sinai vào ngày 29/9, hai ngày trước khi Anh – Pháp đổ quân, và tiến về phía kênh Suez. (Một nhánh quân Israel được chỉ huy bởi một vị tư lệnh trẻ tuổi, người sau này trở thành Thủ tướng Israel: Ariel Sharon). Trong vòng chưa đầy 7 ngày, toàn bộ bán đảo Sinai đã nằm trong tay Israel.

Tuy nhiên, chỉ 8 ngày sau cuộc đổ bộ đường không đầu tiên, chiến dịch của Anh - Pháp đã phải dừng lại theo một thỏa thuận ngừng bắn được Liên hợp quốc (mà thực tế đứng sau là Mỹ) ra lệnh.

Không quân và lục quân Ai Cập đã bị tổn thất nặng dù vẫn giữ được tinh thần kháng cự ở cả khu vực kênh đào và bán đảo Sinai. Không có gì nghi ngờ rằng các đồng minh Anh – Pháp, với lợi thế quân sự áp đảo, sẽ tiếp tục giành quyền kiểm soát kênh đào, dù phải trả giá đắt.

Điều trớ trêu là chiến dịch này hoàn toàn phản tác dụng. Không tăng cường được lợi ích của Anh – Pháp, nó còn làm suy giảm nghiêm trọng uy tín chính trị và quân sự của cả hai nước. Và khác xa với mục tiêu đảm bảo quyền tự do hàng hải quốc tế, 47 con tàu đã bị đánh đắm trên kênh Suez. Kênh đào chiến lược này bị phong toả hoàn toàn.

Khủng hoảng ngoại giao

Mặc dù Thủ tướng Eden dường như không quan tâm nhiều đến những tổn thất đó, nước Anh đơn giản là không còn đủ khả năng để thực hiện cuộc phiêu lưu đế quốc một mình. 

Trong chiến dịch Suez, binh lính Anh đã chiến đấu cùng với đồng minh Pháp. Quan trọng hơn, cả hai đế quốc đang suy tàn của châu Âu đều phải liên minh với lực lượng trẻ nhất nhưng mạnh nhất ở Trung Đông: Israel.

Điều đáng nói là chiến dịch của Anh – Pháp đã vấp phải phản đối từ chính quyền Eisenhower ở Mỹ. Washington kinh hoàng trước cuộc xâm lược của Anh-Pháp-Israel vào khu vực kênh đào Suez và bán đảo Sinai. Mỹ cho rằng hành động này đe dọa làm mất ổn định khu vực chiến lược quan trọng, và củng cố mối liên hệ của Liên Xô với các phong trào giải phóng trên thế giới. 

Nó cũng làm gia tăng căng thẳng toàn cầu trong thời đại bị chi phối bởi cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân và các cuộc khủng hoảng siêu cường. 

Eden nghĩ rằng ông đã nhận được cái gật đầu và nháy mắt đồng ý cho cuộc xâm lược từ Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles. Nhưng trên thực tế Tổng thống Mỹ Eisenhower đã rất tức giận vì hành động này. Ông Eisenhower đã gây áp lực buộc thông qua nghị quyết của Liên hợp quốc về ngừng bắn tại Ai Cập.

Phản ứng từ Liên Xô cũng rất gay gắt. Moskva thậm chí đã cảnh báo sẽ sử dụng tên lửa đạn đạo trang bị đầu đạn hạt nhân để tấn công Anh, Pháp và Israel nếu họ không rút quân.

Khủng hoảng chính trị

Cuộc khủng hoảng Suez đã làm suy yếu nghiêm trọng chính phủ của đảng Bảo thủ Anh. Hai bộ trưởng đã từ chức để phản đối xâm lược Suez. 

Bản thân Thủ tướng Eden cũng bị sự kiện kênh Suez làm cho tan nát cả về mặt chính trị, thể chất và tinh thần. Vào ngày 19/11/1956, chỉ ba ngày trước khi người lính Anh cuối cùng rời khỏi khu vực kênh đào, Eden đột ngột bay đến Jamaica để dưỡng bệnh, để lại Rab Butler phụ trách nội các. Vào ngày 9/1/1957, ông từ chức. Nước Anh tự thừa nhận không còn là một đế quốc.

Những năm ngay sau cuộc chiến Suez đã chứng kiến ​​sự ra đời của một loạt các quốc gia mới trên thế giới trước đây là thuộc địa và phụ thuộc. Người ta không nghi ngờ rằng sự kết thúc của thời kỳ đế quốc đã được đẩy nhanh lên rất nhiều bởi cuộc chiến tranh nhỏ bé ở Kênh Suez, Ai Cập.

Theo Báo Tin tức

Kênh đào Suez lưu thông trở lại sau khi tàu Ever Given được 'tự do'

Kênh đào Suez lưu thông trở lại sau khi tàu Ever Given được 'tự do'

Cơ quan quản lý kênh đào Suez (SCA) cho biết, giao thông trên kênh đào đã được khôi phục trở lại sau khi tàu Ever Given được giải cứu thành công.

" />

Cuộc phiêu lưu quân sự cuối cùng của đế quốc Anh

Thể thao 2025-03-26 20:24:06 3684

Cuộc chiến Kênh đào Suez năm 1956 thường được mô tả là lần "quăng xúc xắc" cuối cùng của đế quốc Anh.

Vào năm 1956,ộcphiêulưuquânsựcuốicùngcủađếquốđá banh tối nay địa cầu vẫn bị bao quanh bởi các tài sản và lãnh thổ phụ thuộc Anh, từ Caribe ở phía Tây đến Singapore, Malaysia và Hong Kong ở phía Đông. Nhưng trên thực tế, từ lâu Mặt trời đã bắt đầu lặn trên đế chế Anh. Thuộc địa lớn nhất của họ là tiểu lục địa Ấn Độ đã giành lại độc lập.

Các phong trào dân tộc chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các phần còn lại, được cổ vũ bởi nước Nga Xô viết. Bản thân nước Anh chỉ mới bắt đầu tái xuất từ sau thời kỳ thắt lưng buộc bụng hậu chiến, nhưng nền tài chính của họ đã bị đè bẹp bởi những khoản nợ tích tụ từ chiến tranh.

Tuy nhiên, vẫn còn những nhân vật quyền lực, những người không chấp nhận rằng Anh không còn là một sức mạnh hàng đầu nữa. Họ lấy lý rằng: chúng ta có vũ khí hạt nhân, một ghế thường trực Hội đồng Bảo an và lực lượng quân sự ở cả hai bán cầu; chúng ta vẫn là một cường quốc thương mại, có lợi ích sống còn trong việc lưu thông hàng hóa tự do trên toàn cầu.

{ keywords}
Kho xăng nằm cạnh kênh đào Suez bị Không quân Anh tấn công năm 1956. Ảnh: AP

Nhưng còn có một động cơ khác, đen tối hơn, cho sự can thiệp vào Ai Cập: Đó là ý thức về sự vượt trội về quân sự đã được bồi đắp qua nhiều thế kỷ bành trướng đế quốc. Khi những người cách mạng ở Cairo dám đề nghị rằng họ sẽ phụ trách Kênh đào Suez, thì sự tức giận của chủ nghĩa đế quốc Anh lại nổi lên.

Bối cảnh lịch sử 

Từ giữa năm 1952, Vua Farouk, người cai trị Ai Cập, đã buộc phải sống lưu vong. Một năm sau, một nhóm sĩ quan quân đội chính thức kiểm soát chính phủ. 

Người đứng đầu chính phủ lâm thời là Tướng Mohammed Neguib, nhưng quyền lực thực sự đằng sau là một đại tá trẻ, người mơ ước tái khẳng định phẩm giá và tự do của một quốc gia Arab. Tên anh ta là Gamal Abdel Nasser.

Mục tiêu đầu tiên của Nasser là hất cẳng sự hiện diện quân sự liên tục của Anh trong khu vực Kênh đào Suez, vốn được coi là biểu tượng cho sự thống trị của đế quốc Anh suốt từ năm 1880, gây nhiều cay đắng cho Ai Cập.

Vào năm 1954, sau khi tuyên bố là người lãnh đạo Ai Cập, Nasser đã đàm phán một hiệp ước mới, buộc các lực lượng Anh phải rời đi trong vòng 20 tháng.

Ban đầu, quá trình chuyển giao quyền lực cơ bản diễn ra trong hòa bình, và ít gây chú ý giữa một thế giới vốn đã bị bủa vây bởi nhiều hỗn loạn. Chiến tranh Lạnh lên đến đỉnh điểm. Người Pháp bị hất khỏi Đông Dương và tham gia vào cuộc chiến tàn khốc ở Algeria; nhà nước non trẻ Israel chiến đấu chống lại đội quân của 6 nước Arab; và Anh đang cố sức cầm chân lực lượng nổi dậy ở Cyprus, Kenya và Malaya.

Chính trường Anh cũng đang trong thời kỳ chuyển giao, với một thế hệ lãnh đạo mới nổi lên sau khi Winston Churchill từ chức Thủ tướng năm 1955. Ông được kế vị bởi Anthony Eden.

Mặc dù từng là ngoại trưởng trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ 2, có nhiều kinh nghiệm nhưng Eden vẫn chưa bao giờ thấm thía một sự thật đơn giản thời hậu Thế chiến: rằng thế giới đã thay đổi mãi mãi.

Vào tháng 7/1956, những người lính Anh cuối cùng đã rút khỏi khu vực Kênh Suez. Nhưng ngày 26/7, Nasser bất ngờ tuyên bố quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez. 

{ keywords}
Cảng Said nằm trên Kênh đào Suez. Ảnh: AP

Đáp lại, Thủ tướng Anh, Eden đã chuẩn bị một phản ứng không cân xứng kỳ cục: Một cuộc xâm lược toàn diện.

Chiến dịch quân sự

Quyết định quốc hữu hóa kênh đào Suez của Nasser đã kéo sau là những hoạt động ngoại giao tăng cường của Anh nhằm mục đích thiết lập một kiểu kiểm soát quốc tế đối với tuyến đường thủy chiến lược này. Nhưng hóa ra đó chỉ là một màn tung hỏa mù cho một chiến dịch quân sự.

Vào tháng 9/1956, Nasser có bài phát biểu đầy thách thức, bác bỏ ý tưởng giám sát quốc tế đối với tài sản quốc gia của Ai Cập. Tới lúc này thì cuộc chiến đã được chốt.

Ngày 31/10/1956, quân đội Anh và Pháp, với mũi nhọn là các lực lượng dù, đã xâm chiếm khu vực kênh Suez. Chính phủ hai nước nói với thế giới rằng họ phải đưa quân vào để chia tách lực lượng Ai Cập và Israel, từ đó bảo vệ quyền tự do hàng hải trên kênh. 

Nhưng thực tế là Anh và Pháp, trong các cuộc đàm phán tuyệt mật với Israel, đã tạo ra một thỏa thuận cho những chiến dịch quân sự phối hợp. 

Đúng ra, Israel mới là người có quyền “khiếu kiện” chính đáng nhất trong số 3 kẻ xâm lược. Bởi từ khi thành lập Nhà nước Do thái năm 1948, Ai Cập đã từ chối cho phép bất cứ tàu nào mang cờ Israel hoặc nhằm hướng Israel được đi qua Kênh Suez.

Các lực lượng Israel tràn vào sa mạc Sinai vào ngày 29/9, hai ngày trước khi Anh – Pháp đổ quân, và tiến về phía kênh Suez. (Một nhánh quân Israel được chỉ huy bởi một vị tư lệnh trẻ tuổi, người sau này trở thành Thủ tướng Israel: Ariel Sharon). Trong vòng chưa đầy 7 ngày, toàn bộ bán đảo Sinai đã nằm trong tay Israel.

Tuy nhiên, chỉ 8 ngày sau cuộc đổ bộ đường không đầu tiên, chiến dịch của Anh - Pháp đã phải dừng lại theo một thỏa thuận ngừng bắn được Liên hợp quốc (mà thực tế đứng sau là Mỹ) ra lệnh.

Không quân và lục quân Ai Cập đã bị tổn thất nặng dù vẫn giữ được tinh thần kháng cự ở cả khu vực kênh đào và bán đảo Sinai. Không có gì nghi ngờ rằng các đồng minh Anh – Pháp, với lợi thế quân sự áp đảo, sẽ tiếp tục giành quyền kiểm soát kênh đào, dù phải trả giá đắt.

Điều trớ trêu là chiến dịch này hoàn toàn phản tác dụng. Không tăng cường được lợi ích của Anh – Pháp, nó còn làm suy giảm nghiêm trọng uy tín chính trị và quân sự của cả hai nước. Và khác xa với mục tiêu đảm bảo quyền tự do hàng hải quốc tế, 47 con tàu đã bị đánh đắm trên kênh Suez. Kênh đào chiến lược này bị phong toả hoàn toàn.

Khủng hoảng ngoại giao

Mặc dù Thủ tướng Eden dường như không quan tâm nhiều đến những tổn thất đó, nước Anh đơn giản là không còn đủ khả năng để thực hiện cuộc phiêu lưu đế quốc một mình. 

Trong chiến dịch Suez, binh lính Anh đã chiến đấu cùng với đồng minh Pháp. Quan trọng hơn, cả hai đế quốc đang suy tàn của châu Âu đều phải liên minh với lực lượng trẻ nhất nhưng mạnh nhất ở Trung Đông: Israel.

Điều đáng nói là chiến dịch của Anh – Pháp đã vấp phải phản đối từ chính quyền Eisenhower ở Mỹ. Washington kinh hoàng trước cuộc xâm lược của Anh-Pháp-Israel vào khu vực kênh đào Suez và bán đảo Sinai. Mỹ cho rằng hành động này đe dọa làm mất ổn định khu vực chiến lược quan trọng, và củng cố mối liên hệ của Liên Xô với các phong trào giải phóng trên thế giới. 

Nó cũng làm gia tăng căng thẳng toàn cầu trong thời đại bị chi phối bởi cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân và các cuộc khủng hoảng siêu cường. 

Eden nghĩ rằng ông đã nhận được cái gật đầu và nháy mắt đồng ý cho cuộc xâm lược từ Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles. Nhưng trên thực tế Tổng thống Mỹ Eisenhower đã rất tức giận vì hành động này. Ông Eisenhower đã gây áp lực buộc thông qua nghị quyết của Liên hợp quốc về ngừng bắn tại Ai Cập.

Phản ứng từ Liên Xô cũng rất gay gắt. Moskva thậm chí đã cảnh báo sẽ sử dụng tên lửa đạn đạo trang bị đầu đạn hạt nhân để tấn công Anh, Pháp và Israel nếu họ không rút quân.

Khủng hoảng chính trị

Cuộc khủng hoảng Suez đã làm suy yếu nghiêm trọng chính phủ của đảng Bảo thủ Anh. Hai bộ trưởng đã từ chức để phản đối xâm lược Suez. 

Bản thân Thủ tướng Eden cũng bị sự kiện kênh Suez làm cho tan nát cả về mặt chính trị, thể chất và tinh thần. Vào ngày 19/11/1956, chỉ ba ngày trước khi người lính Anh cuối cùng rời khỏi khu vực kênh đào, Eden đột ngột bay đến Jamaica để dưỡng bệnh, để lại Rab Butler phụ trách nội các. Vào ngày 9/1/1957, ông từ chức. Nước Anh tự thừa nhận không còn là một đế quốc.

Những năm ngay sau cuộc chiến Suez đã chứng kiến ​​sự ra đời của một loạt các quốc gia mới trên thế giới trước đây là thuộc địa và phụ thuộc. Người ta không nghi ngờ rằng sự kết thúc của thời kỳ đế quốc đã được đẩy nhanh lên rất nhiều bởi cuộc chiến tranh nhỏ bé ở Kênh Suez, Ai Cập.

Theo Báo Tin tức

Kênh đào Suez lưu thông trở lại sau khi tàu Ever Given được 'tự do'

Kênh đào Suez lưu thông trở lại sau khi tàu Ever Given được 'tự do'

Cơ quan quản lý kênh đào Suez (SCA) cho biết, giao thông trên kênh đào đã được khôi phục trở lại sau khi tàu Ever Given được giải cứu thành công.

本文地址:http://user.tour-time.com/html/923f598080.html
版权声明

本文仅代表作者观点,不代表本站立场。
本文系作者授权发表,未经许可,不得转载。

全站热门

Nhận định, soi kèo U19 Anh vs U19 Thổ Nhĩ Kỳ, 18h00 ngày 22/3: Trận đấu bước ngoặt

Chốt địa điểm tổ chức lễ công bố thành phố Huế trực thuộc Trung ương - 1

Quảng trường Ngọ Môn sẽ là nơi diễn ra lễ công bố nghị quyết thành lập thành phố Huế trực thuộc Trung ương (Ảnh: Vi Thảo).

Ông Bình cho biết, sau khi nghiên cứu các phương án, lãnh đạo tỉnh đã quyết định chọn Quảng trường Ngọ Môn, trước Đại nội Huế, làm nơi tổ chức sự kiện quan trọng này, nhằm tạo hình ảnh sâu đậm về thành phố di sản quốc gia.

Theo kế hoạch, buổi lễ dự kiến được tổ chức vào cuối tháng 12, với sự tham dự của khoảng 1.700 đại biểu. Sự kiện sẽ được truyền hình trực tiếp trên các kênh thông tin đại chúng để người dân theo dõi và hưởng ứng.

"Lãnh đạo tỉnh đang cân nhắc để sự kiện diễn ra thành công, tạo sức lan tỏa, động lực, khí thế mới cho thành phố bước vào giai đoạn phát triển mới", ông Bình chia sẻ.

Trước đó, ngày 30/11, Quốc hội đã thông qua nghị quyết thành lập thành phố Huế trực thuộc Trung ương. Theo nghị quyết, thành phố Huế sẽ được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên hơn 4.900km2 và quy mô dân số hơn 1,2 triệu người của tỉnh Thừa Thiên Huế.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ban hành nghị quyết về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, xã của thành phố Huế trong giai đoạn 2023-2025. Thành phố Huế trực thuộc Trung ương sẽ có 9 đơn vị hành chính cấp huyện và 133 đơn vị hành chính cấp xã.

Thành phố Huế hiện hữu sẽ được tách thành 2 quận Phú Xuân và Thuận Hóa; thành lập mới thị xã Phong Điền; hợp nhất 2 huyện Nam Đông và Phú Lộc thành huyện mới mang tên Phú Lộc.

Thành phố Huế trực thuộc Trung ương sẽ thành lập Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân mới, kế thừa từ tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay, đồng thời giải thể và thành lập các cơ quan này tại các đơn vị hành chính cấp huyện mới hình thành.

">

"Chốt" địa điểm tổ chức lễ công bố thành phố Huế trực thuộc Trung ương

Một trong những cách làm sáng tạo trong xây dựng nông thôn mới ở xã Đông Dương, huyện Đông Hưng, đó là xây đình làng văn hóa "2 trong 1", nơi người dân gắn yếu tố văn hóa với đời sống tâm linh.

Đình làng "2 trong 1"

Trước năm 2012, thôn Phương Cúc (xã Đông Dương , Đông Hưng, Thái Bình) chưa có hội trường; mọi hoạt động giao lưu, hội họp thường diễn ra tại nhà dân.

Thực hiện tiêu chí số 6 về cơ sở vật chất văn hóa, khi đó các thôn trong xã đều chưa có hội trường thôn đạt tiêu chuẩn. Cùng với sự đồng tình của cấp trên, xã Đông Dương đã đồng ý để thôn Phương Cúc huy động nguồn lực từ con em xa quê, của chính người dân trong thôn đóng góp để khôi phục lại đình làng cũ đã bị tàn phá trong chiến tranh, kết hợp sử dụng như nhà văn hóa thôn.

Công trình Đình làng Phương Cúc hoàn thành vào cuối năm 2012, trên khuôn viên rộng rãi, hội trường đủ các chỗ ngồi, bàn ghế khang trang với đủ các trang thiết bị thiết yếu phục vụ cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao.… Sân đình có sân khấu ngoài trời, là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, lễ hội, thể thao của người dân trên địa bàn xã.

{keywords}

Một buổi sinh hoạt thôn tại Đình làng của người dân thôn Phương Cúc, xã Đông Dương.

Để Đình làng - Nhà văn hóa luôn đẹp đẽ trang nghiêm không chỉ vào dịp lễ mà còn cả những buổi họp hành, giao lưu, dân làng còn bầu thủ từ- người cùng các cụ cao niên ngày đêm trông coi, dọn dẹp sạch sẽ nơi thờ tự; từ đó gìn giữ giá trị tâm linh văn hóa và duy trì sinh hoạt cộng đồng của nhân dân nơi đây.

Những công việc của thôn khi được đưa ra bàn với chúng tôi, mọi người đều hăng hái ủng hộ. Và những Đảng viên như chúng tôi không những đóng góp tinh thần, trách nhiệm, mà còn vận động những người thân trong gia đình, bà con làng xóm và con em xa quê hướng về địa phương.

Đình làng - Nhà văn hóa, mô hình sáng tạo xây nông thôn mới

Ông Nguyễn Quang Huy- Trưởng ban Văn hóa xã Đông Dương cho biết, sau Phương Cúc, nhiều thôn trong xã đã tu bổ đình làng khang trang, nhờ nguồn vốn xã hội hóa. Ngoài nơi thờ, các đình đều có khuôn viên, nơi hội họp được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ như: loa, tăng âm, đầu thu hình, bàn ghế phục vụ nhân dân đến họp và sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Bất kỳ sự kiện lớn nhỏ, các hoạt động văn hóa của thôn đều tổ chức tại đình làng văn hóa. Trong không gian ấm cúng, tôn nghiêm, linh thiêng của đình làng, người dân đi họp đông đủ, nâng cao ý thức xây dựng thôn xóm, nghiêm túc đóng góp ý kiến và gắn bó với làng, với xóm.

{keywords}

Một góc đình làng - nhà văn hóa, mô hình sáng tạo trong xây dựng NTM ở xã Đông Dương, huyện Đông Hưng.

Theo đánh giá của UBND xã Đông Dương, triển khai hoạt động văn hóa của cộng đồng dựa trên văn hóa tâm linh luôn được người dân đồng tình, hưởng ứng, nhiệt tình tham gia. Vì vậy, xây dựng nông thôn mới, giữ vững giá trị, những nét đẹp văn hóa truyền thống với giá trị hiện tại vốn có là cách làm hiệu quả trong xây dựng nông thôn mới.

Mô hình kết hợp xây dựng đình làng và nhà văn hóa ở xã Đông Dương, huyện Đông Hưng là cách làm sáng tạo, huy động được sức mạnh của cộng đồng, sự đồng thuận của nhân dân không chỉ trong các công trình cơ sở vật chất văn hóa, mà từ đó tạo thành đòn bẩy, thúc đẩy địa phương hoàn thiện các tiêu chí về xây dựng nông thôn mới; từ đó góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân.

Q.Hiếu - Thùy Vân

">

Thái Bình: Đình làng cũng là nhà văn hóa

Nhận định, soi kèo Smederevo vs Trayal Krusevac, 21h00 ngày 24/3: Chia điểm?

友情链接