- TheâmcơmcúngrằmthángđơngiảntheonghệnhânẩmthựcÁnhTuyếkêt quả bóng dao nghệ nhân Ánh Tuyết, làm cơm cúng Rằm tháng bảy để tỏ lòng thành tuy nhiên phải phù hợp hoàn cảnh kinh tế, tránh lãng phí.
Mâm cơm chiều 5 món đậm đà, ai thấy cũng thèm
- TheâmcơmcúngrằmthángđơngiảntheonghệnhânẩmthựcÁnhTuyếkêt quả bóng dao nghệ nhân Ánh Tuyết, làm cơm cúng Rằm tháng bảy để tỏ lòng thành tuy nhiên phải phù hợp hoàn cảnh kinh tế, tránh lãng phí.
Mâm cơm chiều 5 món đậm đà, ai thấy cũng thèm
Chăm lo tổ ấm cho… người dưng
Cụ Sang kể, cụ sinh ra ở TP.HCM, tới năm 1955 thì theo chồng về Cần Thơ sinh sống. Chăm chỉ làm ăn tích góp, mua đất, cất nhà, vợ chồng cụ có với nhau 4 người con (2 trai, 2 gái).
“Các con dần lập gia đình, mỗi đứa một phương. Ngày đó gia đình khấm khá nhờ nghề buôn ve chai nhưng chồng tôi mê đánh xổ số. Ông đánh vé số quá trời mới thành ra thiếu nợ. Các con cũng chẳng thể giúp gì, đành bán nhà trả nợ phần nào”, cụ Sang ngậm ngùi nhớ lại.
Không tấc đất cắm dùi, vợ chồng cụ đánh liều tìm đến khu nghĩa địa gần đó, “bất đắc dĩ” lấn đất của người chết, đóng cọc, quây tôn làm nơi trú ngụ qua ngày.
Cụ kể, hồi mới chuyển về đây nhiều khi mất ăn, mất ngủ vì sống gần những ngôi mộ. Cảm giác sợ hãi bao trùm mỗi khi đêm xuống. Nhưng vì hoàn cảnh, vợ chồng cụ đành chấp nhận, dần dần cũng thành quen. Tuy nhiên, những người lạ đi ngang không khỏi tò mò và ớn lạnh trước cảnh người sống “sống cùng” người chết.
Thời gian thấm thoắt trôi, khu nghĩa địa ngày nào được di dời, nhà cửa mọc lên nhiều hơn, các phần mộ cũng được người thân cất bốc đi nơi khác, duy chỉ có ngôi mộ giữa nhà cụ Sang vẫn nằm im lìm.
Nói về người dưới mộ, cụ Sang cho biết đó là cụ Nguyễn Thị Có, sinh năm 1913. Cụ Có trước đây là chủ sạp buôn vải ở chợ, rất giàu có. Khi sinh con út vào năm 1956, cụ không may bị băng huyết và tử vong.
“Tôi thường xuyên nhang khói, trái cây ngày rằm, ông nhà thì quét sơn vào mỗi dịp cuối năm. Con cháu cụ Có thường ghé thăm mộ 2 lần vào dịp tết Nguyên đán và Thanh minh. Thấy vợ chồng tôi chăm sóc ngôi mộ như người thân nên họ đồng ý cho chúng tôi ở lại”, cụ bộc bạch.
Năm 2009, chồng cụ Sang qua đời, mình cụ tới lui trong căn nhà hiu quạnh. Thương mẹ già yếu, cô con gái thứ hai đón cụ về ở chung, thế nhưng dài nhất cũng chỉ được vài ngày, cụ lại khăn gói trở về vì không muốn phiền hà con cháu.
Chật vật tuổi xế chiều
11h trưa, nhà quây tôn bịt kín mít, nắng chiếu thẳng vào khiến căn phòng thêm nóng nực. Chiếc bếp than đun nước không ngừng toả nhiệt, mồ hôi cụ cứ thế tuôn ra. Chiếc quạt điện, vật “cứu cánh” duy nhất giữa mùa nắng nóng nhưng cụ vẫn không dùng đến vì sợ phiền.
“Quạt bật chỉ để đuổi muỗi, giăng kín mùng rồi lại tắt đi. Dùng điện nhờ hàng xóm, sợ tốn tiền, phải tiết kiệm cho người ta. Hàng xóm bảo tôi dùng thoải mái, tốn không đáng bao nhiêu nên đừng ngại”, cụ Sang kể.
Hiện tại, cụ sống nhờ chu cấp hàng tháng của con.
Cụ Sang cho hay, chợ gần nhà nên ráng lội đi, tới đâu mệt nghỉ tại đó. “Tôi không làm gì ra tiền nên phải mua ăn hà tiện, 50.000 đồng tiền thịt heo kho ăn 4, 5 ngày. Tôi không ăn cá do xương nhiều, mắc cổ một lần khiếp đến giờ. Cũng may có hàng xóm, phường quan tâm, cho gạo nên đỡ đần phần nào”, cụ nói.
![]() | ![]() |
Ở tuổi xế chiều, cụ Sang đã nặng tai, đi lại khó khăn nhưng vẫn có thể tự lo cơm nước hàng ngày
Chi tiêu tiết kiệm là thế nhưng tuần nào cụ cũng nhất quyết dành ra một khoản mua thuốc diệt côn trùng, bởi căn nhà cụ thường xuyên bị chuột, muỗi, mối "ghé thăm". Mỗi lần mở cuốn lịch thấy tổ mối, cụ bà lại cảm thấy lạnh sống lưng.
Gần nửa đời người gắn bó, chăm sóc, cụ xem ngôi mộ như mộ người thân đã mất của mình. Bây giờ, tuổi ngày càng cao, cụ Sang chỉ mong khỏe mạnh, sống vui những tháng năm còn lại.
Anh Tô Quang Dũng bén duyên với việc sản xuất rau xà lách thủy canh từ năm 2016 (Ảnh: Minh Hậu).
Năm 2004, anh Tô Quang Dũng học nghề cơ khí tại một trường cao đẳng ở tỉnh Lâm Đồng. Năm 2008, sau khi tốt nghiệp, anh vay mượn tiền mở xưởng cơ khí tại Đà Lạt. Tuy nhiên, xưởng cơ khí không mang lại kết quả như kỳ vọng nên anh quyết định chuyển hướng làm ăn.
"Năm 2011, sau khi đóng cửa xưởng cơ khí, tôi vay mượn thêm tiền để thuê đất làm vườn. Lúc bấy giờ, với diện tích nhỏ ở xã Lát, huyện Lạc Dương, tôi trồng rau ăn lá để bán", anh Dũng kể.
Đến năm 2014, sau nhiều năm tích góp, gia đình anh Dũng đã mua được khu vườn rộng hơn 2ha tại xã Đạ Sar, huyện Lạc Dương. Một năm sau, anh được qua Malaysia tham gia hội nghị khách hàng, tham quan các mô hình sản xuất rau. Trong chuyến đi, anh Dũng nhận thấy mô hình trồng rau thủy canh có nhiều ưu điểm, mang lại hiệu quả kinh tế cao nên ấp ủ dự định thực hiện tại Đà Lạt.
Mỗi năm, gia đình anh Tô Quang Dũng trồng 11 vụ rau cung ứng cho thị trường (Ảnh: Minh Hậu).
"Trong năm 2015, tôi đầu tư sản xuất rau thủy canh trên tổng diện tích 0,5ha. Lúc đó, sản xuất thủy canh là mô hình mới, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn. Các vật tư như hệ thống máng trồng, phân bón, giống... đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Năm 2018, gia đình tôi thua lỗ 2 tỷ đồng vì rau nhiễm bệnh, chết hàng loạt. Về sau, tôi phải tìm đến các trung tâm nghiên cứu, chuyên gia để học hỏi", anh Dũng nói.
"Ông trùm" xuất khẩu
Anh Tô Quang Dũng cho biết, hiện nay gia đình sản xuất xà lách Crispenya và Crispyano (người dân Đà Lạt thường gọi là xà lách thủy tinh). Cây giống sau khi đặt lên giàn thủy canh được cung cấp các dưỡng chất thiết yếu thông qua hệ thống tưới công nghệ cao. Với quy trình này, cây rau cho thu hoạch sau 30-35 ngày.
Trang trại sản xuất rau của gia đình anh Tô Quang Dũng tạo công ăn việc làm cho 18 lao động (Ảnh: Minh Hậu).
Việc trồng rau thủy canh trong nhà kính công nghệ cao ít bị tác động bởi thời tiết, sâu bệnh. Trung bình, mỗi năm anh Tô Quang Dũng sản xuất 10-11 vụ rau thủy canh, đáp ứng nguồn hàng liên tục cho thị trường.
Việc sản xuất mang lại hiệu quả nên gia đình anh Dũng đã mở rộng khu sản xuất lên 4ha. Trong đó, anh sử dụng 2ha sản xuất rau thủy canh, 2ha còn lại trồng các loại rau, củ quả theo quy trình thổ canh.
Với quy mô hiện tại, mỗi ngày gia đình anh Dũng cung cấp hàng cho các hệ thống siêu thị trong nước 4-5 tấn rau. "Cùng với việc phát triển thị trường trong nước, chúng tôi cũng hợp đồng với đối tác Hàn Quốc. Mỗi tháng lượng rau xuất sang quốc gia này khoảng 50 tấn", anh Dũng chia sẻ.
Về kế hoạch phát triển trong thời gian tới, theo anh Dũng, các đối tác ở Đài Loan (Trung Quốc), Singapore cũng đã tới tham quan trang trại và quan tâm đến sản phẩm rau thủy canh của gia đình. Thời gian tới, anh dự định mở rộng khu sản xuất lên 4ha và liên kết với các nông hộ trong vùng để nâng quy mô sản xuất, phục vụ thị trường.
Trồng rau thủy canh, nông dân thu tiền tỷ (Video: Minh Hậu).
Chị Mai Thị Hiệp, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Lạc Dương, Lâm Đồng xác nhận, mô hình sản xuất rau thủy canh của gia đình anh Dũng là điển hình trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao ở địa phương. Với quy trình sản xuất và thị trường ổn định, mỗi năm gia đình anh thu về 10-12 tỷ đồng.
Theo chị Mai Thị Hiệp, mô hình sản xuất rau thủy canh tăng cao hiệu suất sử dụng đất và gia tăng giá trị nông sản. Khác với xà lách trồng đất 3 vụ/năm, rau thủy canh có thể đẩy lên đến 11 vụ/năm, giúp chủ vườn tăng lợi nhuận.
Trang trại của gia đình anh Tô Quang Dũng đang tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 18 lao động với mức lương 6,5-8,5 triệu đồng/người/tháng. Trong đó nhiều lao động là con em vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại xã Đạ Sar, huyện Lạc Dương.
" alt=""/>Thợ cơ khí bỏ nghề lên núi trồng xà lách, mỗi năm thu... chục tỷ đồngNgười dân địa phương phát hiện con vật có hình thù kỳ lạ này ở gần sông Kamo, Kyoto. Họ lập tức báo cho cơ quan chức năng.
Sinh vật kỳ lạ xuất hiện sau khi khu vực này hứng chịu trận mưa lớn do ảnh hưởng của bão. Nó có chiều dài khoảng 1,3m, đầu bẹt, có 4 chân nhưng đuôi giống loài cá. Nó giống với loài kỳ giông khổng lồ, một sinh vật quý hiếm tại Nhật Bản.
Chuyên gia cho rằng con vật này có thể là kỳ giông lai. Kết quả xét nghiệm ADN sẽ giúp họ xác định "danh tính" thực sự của con vật kỳ lạ này.
Cơ quan chức năng yêu cầu người dân liên hệ ngay, nếu phát hiện những sinh vật tương tự vì chúng có khả năng sẽ cắn người.
Kỳ giông khổng lồ Nhật Bản được ví như một kho báu tự nhiên đặc biệt. Chúng thường ăn côn trùng, cá, ếch và có thể sống hơn 50 năm.
Một con kỳ giông trưởng thành có thể phát triển chiều dài khoảng 1,5m và nặng hơn 3kg. Chúng được coi là loài kỳ giông lớn thứ 2 thế giới, sau kỳ giông khổng lồ Trung Quốc.
Kỳ giông khổng lồ Nhật Bản nằm trong danh sách đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (ICUN).